Bản tự thuật của
SISTER MARIA ANTONIA
Chuyển ngữ: Sr. Têrêsa Thơm Nguyễn, OP.
Các đặc ân phi thường và những mặc khải nơi nữ tu Maria Antonia (Cecy Cony) đã được Đức Thánh Cha Urbano VII công nhận trong phạm vi nhân linh. Mọi điều trong sách này đều được đặt dưới phán quyết của Hội Thánh Công Giáo.
Đã được phép Nhà Xuất Bản TAN BOOKS AND PUBLISHERS, dịch sang tiếng Việt ngày 28-08-2001.
Chương III:
HỌC CẦU NGUYỆN BẰNG KINH MÂN CÔI
Trước khi được Rước Lễ Lần Đầu, tôi biết rất ít về Mẹ Thánh của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, sau việc dâng Mẹ những bông hồng trắng và nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ, tôi đã được rước lễ lần đầu, nhờ ơn Chúa, tôi bắt đầu yêu mến Đức Mẹ hơn. Kinh Kính Mừng đã trở thành lời kinh đầu tiên tôi đọc để tôn kính Đức Mẹ. Rồi mẹ Raphael dạy chúng tôi lời nguyện sau đây :
“Lạy Mẹ rất từ ái, chúng con thuộc về Mẹ. Lạy Nữ Trinh Rất Thánh, xin bảo vệ và gìn giữ chúng con như của riêng Mẹ vậy.”
Hôm ấy khi về nhà, tôi vội vã làm mọi chuyện. Tôi muốn Acacia cho tôi đi tắm càng sớm càng tốt, rồi cha tôi sẽ giúp tôi học bài. (Cha tôi thường giúp tôi học. Ông rất kiên nhẫn dạy dỗ cho tới khi tôi 9 hay 10 tuổi gì đó). Lý do khiến tôi vội vã là vì đây là lần đầu tiên tôi muốn đọc kinh Mân Côi một mình. Nhưng cả Acacia và cha tôi đều không làm như dự tính của tôi. Cha tôi còn ở trại lính, còn Acacia làm bếp cho đến khi cha tôi về. Vì thế, tôi quyết định đọc kinh Mân Côi ngay lúc đó.
Tôi đem theo cuốn “Chìa Khoá Thiên Đàng” và đặt tại chân bàn để cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ. Đến lúc đó tôi mới chợt nhận ra một sự thiếu sót rất lớn là tôi không có tràng hạt. Tôi chợt nhớ ra Acacia có một chuỗi hạt đeo cổ với những hạt màu xanh trông giống như tràng hạt, tôi bèn lấy chuỗi ấy xài tạm.
Chuỗi hạt của Acacia không có Thánh Giá. Tôi cũng không có tượng nào cả, nhưng tôi tin rằng, Đức Mẹ biết và điều này xem như không quan trọng. “Người Bạn Mới” của tôi cũng ở đó, tôi cảm thấy người đang quan sát từng cử chỉ của tôi. Cả Chúa cũng ở đấy với tôi.
Tôi được dạy rằng tất cả mọi hình ảnh Thánh, tràng hạt và ảnh đeo phải được làm phép, nên tôi nghĩ : chuỗi hạt của Acacia không phải là đồ thánh, vì nó chưa được làm phép. Vì thế, tôi quỳ gối, với lòng kính mến sâu xa, tôi đặt chuỗi hạt trong lòng bàn tay, còn tay kia tôi làm dấu Thánh Giá và đọc : “Ta làm phép chuỗi hạt nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”
Rồi tôi bắt đầu đọc kinh Mân Côi. Tôi tin chắc rằng Đức Mẹ đã nhận lời kinh của tôi khi tôi dùng chuỗi hạt của Acacia. Cả Chúa và “Người Bạn Mới” cũng hiện diện với tôi, và họ chẳng phản đối gì khi tôi làm điều này.
Đọc kinh xong, tôi nâng niu chuỗi hạt. Tôi nghĩ rằng : Từ bây giờ, Acacia không thể dùng chuỗi hạt để làm đồ trang sức nữa bởi vì nó đã được làm phép. Tôi sẽ xin Acacia cho tôi chuỗi hạt đó và đổi lại tôi sẽ cho cô ấy tất cả số tiền còn lại của tôi. Tuy thế, Acacia rất tế nhị, cô không lấy tiền mà còn cho tôi chuỗi hạt. Cô chỉ nhận một gói bánh chocolate nhỏ mà tôi mua mất có vài xu mà thôi.
Đến cuối năm, khi gia đình tôi tổ chức lễ tất niên, tôi đã nhận một cái túi nhỏ làm bằng vải xa tanh màu xanh da trời, đựng một tràng chuỗi Mân Côi nhỏ màu trắng mà mẹ Raphael vừa làm phép. Đó là tràng chuỗi Mân Côi đầu tiên của tôi. Ngày hôm sau, tôi đến viện tế bần để dạy cho ông lão Cyprian biết cách cầu nguyện bằng kinh Mân Côi. Tôi đã đọc kinh Mân Côi với chuỗi hạt đeo cổ của Acacia được 2 tháng. Và trong thời gian này, tôi đã 2 lần đi trại tế bần để dạy cho ông già dùng chuỗi hạt đeo cổ và lần nào tôi cũng xin “Người Bạn Mới” cùng đi với tôi. Nhưng “Người Bạn Mới” đã ngăn cản tôi. Mãi tới khi tôi có chuỗi tràng hạt xanh thật đẹp, người không ngăn cản tôi nữa nhưng người đồng hành với tôi tới trại tế bần.
Lạy Chúa Giêsu tốt lành, thánh thiện và Thiên Thần Bản Mệnh trung tín, con tin chắc rằng trong tình yêu thương trìu mến của Chúa, Chúa đã tha thứ cho sự ngu dốt của con. Đứa đầy tớ bé nhỏ này chỉ có một ao ước duy nhất là làm đẹp Thiên Ý và cháy lên ngọn lửa yêu mến Người.
Ông bạn Cyprian
Tôi nghĩ rằng mình nên thuật lại vài mẩu chuyện về người bạn tốt của tôi, ông lão Cyprian bất toại, sống ở viện tế bần. Khi chúng tôi rời Santa Vitoria và đến cư ngụ tại Jaguarao, đối diện nhà tôi là một trại tế bần dành cho những người hành khất. Trại tế bần rất rộng, gồm nhiều phòng nhỏ. Mỗi phòng có một cửa sổ nhìn ra đường. Căn phòng có cửa sổ đối diện với nhà chúng tôi là phòng của một ông lão bất toại. Ông chỉ cử động được cái đầu và cánh tay trái mà thôi. Dù ở trong nhà hay ngoài đường tôi vẫn thấy ông. Ông nằm cả ngày trên chiếc giường dọc theo cửa sổ luôn mở rộng. Ông ngồi dựa vào một đống gối. Mẹ tôi rất thương ông, ngày nào bà cũng đem thức ăn cho ông.
Một ngày kia, Acacia dẫn tôi đi đến trại tế bần. Từ đàng xa, tôi đã nhìn thấy ông cụ, cái đầu ông trắng như bông gòn và bộ râu quai nón cũng bạc trắng. Khi đến nơi, Acacia không cho tôi vào phòng ông, tôi phải đứng đợi ngoài cửa. Từ chỗ tôi đứng tới giường ông chỉ cách khoảng vài bước chân, nên tôi có thể quan sát ông kỹ hơn. Râu tóc bạc phơ của ông làm tôi nhớ một bức tranh về Chúa Ba Ngôi, trong đó Cha Trên Trời được diễn tả bằng một ông già đạo mạo đáng kính với râu tóc bạc phơ. Trong bức tranh này, Cha Trên Trời không bao giờ tỏ vẻ giận dữ với tôi dù tôi đã có lần lầm lỗi. Trái lại, người nhìn tôi bằng cặp mắt nhân từ và thương xót.
Tôi chú ý đến cây Thánh Giá bằng kim loại trắng to hơn bàn tay ông đeo trước ngực. Cây Thánh Giá được gắn vào sợi dây thắt nút. Tôi tự nhủ : “Tôi mến ông lão này lắm. Tôi sẽ chăm sóc ông để linh hồn và trái tim ông sẽ trở nên trắng như tuyết để dành cho Chúa Giêsu nhân từ.” Sau khi Acacia đặt thức ăn trên cái bàn nhỏ, cô nói vài lời với ông, rồi trở ra dắt tôi về. Suốt nhiều hôm đó, tôi nghĩ về ông lão này. Đêm đó, trước khi đi ngủ, tôi đã cầu nguyện với “Người Bạn Mới” :
“Người Bạn Mới” của con ơi ! Ngày mai con muốn đến thăm ông lão nghèo nàn tật nguyền đó, con sẽ nói với ông về Cha Trên Trời. Con muốn người cùng đi với con. Con không muốn đi với Acacia, vì cô ấy luôn vội vã về nhà.”
Sau đó, chúng tôi được nghỉ học hai ngày. Buổi sáng hôm ấy, khi Acacia đi thăm viện tế bần, tôi chạy tới cửa sổ đề nhìn ông lão. Ông vẫn ngồi trên giường và dựa vào đống gối. Tôi liền chạy ra khỏi nhà, băng qua đường, và đi tới cửa sổ phòng ông. Tôi cố gắng trèo lên bệ cửa sổ và ngồi trên đó. Ông già rất ngạc nhiên khi thấy tôi đến thăm ông. Tôi nghĩ ông có thể giật mình sợ hãi, nên nói với ông : “Ông ơi, đừng sợ ! Cháu là đứa bé đã đến đây ngày hôm nay với Acacia đó. Nhà cháu ở gần đây !”
Ông lão tỏ vẻ rất mừng rỡ. Tôi xin ông cho tôi xem cây Thánh Giá của ông. Ông liền gỡ Thánh Giá ra và đưa cho tôi. Tôi nói với ông về bài học đầu tiên tôi học được nơi Dona Mimosa. Tôi không hề quên sót một điểm nào trong đó. Ông già lắng nghe tôi không ngắt một lời. Khi tôi nói xong, ông già bắt đầu khóc y như cô bé Đêdê ngày xưa đã khóc trên cánh tay bà Dona Mimosa vậy. Tôi bảo ông hôn tượng Thánh Giá. Ông đã làm như tôi yêu cầu. Rồi ông lại đeo Thánh Giá vào cổ như trước.
Tôi hứa với ông rằng sáng mai tôi sẽ đến thăm ông, và cho ông xem tượng Mẹ của Chúa Giêsu làm bằng thạch cao. “Người Bạn Mới” đã ở với tôi cả ngày hôm ấy, nhưng người không ngồi ở thành cửa sổ như tôi. Tôi tin rằng người luôn đứng bên cạnh nhưng vì tôi còn quá nhỏ nên cho dù đã cố gắng ngẩng đầu nhìn lên gương mặt thánh thiện của người mà tôi vẫn không thấy người.
Giữ đúng lời hứa, sáng hôm sau vẫn là ngày nghỉ, tôi đem tượng Đức Mẹ băng qua đường, rồi trèo lên thành cửa sổ phòng ông lão. Tôi cho ông xem bức tượng và bảo ông đó là Mẹ Chúa Giêsu. Rồi tôi đọc cho ông nghe kinh Kính Mừng. Chiều chiều, sau khi đi học về khoảng 4 giờ, tôi lại đến thăm ông và ngồi nơi thành cửa sổ. Tôi không bao giờ bỏ việc thăm ông, vì tôi biết rằng điều đó làm ông lão sung sướng. Trong những ngày mưa hay những ngày mùa đông lạnh giá, tôi không được phép ra đường thì tôi nhìn ông bạn già qua cửa sổ nhà tôi. Tôi thương ông lão thật tình, và tôi chắc chắn ông cũng rất thích tôi.
Nhiều tháng trôi qua, ông lão Cyprian đã thuộc các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Thiên Thần Bản Mệnh và kinh Hãy Nhớ. Đó là những kinh tôi đã học trong thời gian chuẩn bị Xưng Tội, Rước Lễ Lần Đầu. Vào cuối năm ấy, như tôi đã kể ở trên, tôi được nhận giải thưởng là một tràng chuỗi Mân Côi màu trắng rất đẹp. Tôi coi đây là tài sản riêng của tôi. Ngay sau đó, tôi chạy ngay tới viện tế bần để chỉ cho ông lão cầu nguyện bằng kinh Mân Côi. Lúc này “Người Bạn Mới” không ngăn cản tôi như trước. Ông lão học rất nhanh. Ông thuộc các kinh Tin Kính, Lạy Cha, Kính Mừng và Sáng Danh. Nhưng ông chưa thuộc được những mầu nhiệm Mân Côi, lý do rất đơn giản là vì người giáo lý viên nhỏ bé này cũng chưa biết. Vì thế, tôi đem sách kinh ra đọc. Lúc đó tôi đọc cũng chưa giỏi, và ông cụ đã lần hạt bằng tràng hạt của tôi.
Mẹ tôi nhìn qua cửa sổ phòng ông cụ ; nếu thấy tôi ở đó, mẹ tôi gọi về và bắt phạt. Những lần như thế, tôi thường để chuỗi hạt lại cho ông và nói : “Ông Cyprian, chiều nay khi đường phố lên đèn ông hãy bắt đầu đọc kinh Mân Côi. Lúc đó ở nhà cháu sẽ mở sách “Chìa Khoá Thiên Đàng” và đọc các mầu nhiệm kinh Mân Côi mà ông phải suy niệm. Đức Mẹ biết hết mọi sự, nghe thấy hết mọi sự, và nhìn thấy hết mọi sự như Chúa Giêsu vậy. Rồi ngày hôm sau cháu sẽ đến đem tràng hạt về.” Tôi đã làm như vậy nhiều lần. Khi viết những dòng này, tôi nghĩ ngay đến một đặc ân lớn lao mà Chúa đã ban cho tôi, đó là tôi không bị nhiễm bệnh. Bao nhiêu lần tiếp xúc gần gũi với ông già, không ai chăm sóc và rất đau đớn vì nhiều thứ bệnh hành hạ, nên tôi rất dễ bị lây những bệnh đó vì tôi chẳng có gì để bảo vệ. Tôi nhớ rõ cái lần tôi và ông cùng hôn ảnh Thánh Giá ông đang đeo mà tôi vẫn không bị nhiễm bệnh.
Lạy Chúa Giêsu rất nhân từ, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã che chở quan phòng cho con cả hồn lẫn xác. Lạy Chúa, ước gì điều con viết ra đây chỉ là để làm vinh danh Chúa.