Từ những ngày đầu tiên chập chững bước chân vào nhà Đệ tử, rồi trở thành tập sinh, đặc biệt khi đã khấn dòng, trở thành tu sĩ, chúng ta không còn thuộc về mình, nhưng đã hoàn toàn thuộc về một Hội Dòng. Hội Dòng của chúng ta là Hội Dòng Nữ Đaminh Tam Hiệp, hậu thân của Dòng Nữ Đaminh Bùi Chu tại giáo phận Xuân Lộc. Công Đồng Vatican II đã định nghĩa tu sĩ như những người tự nguyện bước theo Đức Kitô, cố gắng tiếp nối nếp sống và sứ vụ của Người. Trình thuật Tin Mừng thường dùng từ ngữ “ hãy theo thầy”, để diễn tả việc Đức Kitô mời gọi các tông đồ. Kiểu nói này một đàng nói lên sự ưu ái đặc biệt của Đức Kitô đối với người được mời gọi, mặt khác nói lên tính dứt khoát và quyết liệt của người bước theo Chúa. Nhờ Hội Dòng người tu sĩ bước theo Chúa Kitô vì Nước Trời và cho anh chị em. Tuy nhiên, họ chỉ thực hiện được nhiệm vụ cao đẹp ấy trong và qua Hội Dòng mà họ đã gia nhập.
Vì thế, phải yêu mến Hội Dòng của mình là đòi hỏi tất yếu của đời tu. Vậy chúng ta phải làm gì để thực hiện tình yêu đó.
1/ Cần xác định thái độ của tôi đối với Hội Dòng
Trong Phúc Âm, khi hai môn đệ của Gioan đi theo Chúa Giêsu, Ngài quay lại hỏi: “Các anh tìm gì?” Ngài cũng hỏi cô Maria Mác-đa-la khi cô đứng trước cửa mồ buổi sáng ngày Chủ Nhật Phục Sinh (Ga 20, 11-18 ): “Cô tìm ai?” Cuộc sống của ta trong Dòng cũng bắt đầu với câu hỏi tương tự: “Chị đi tìm gì?” Đó là câu hỏi mà Chúa Giêsu luôn đặt ra cho các người theo Chúa.
Chúng ta có thể trả lời như trong Sắc lệnh Dòng Tu viết: “Qua việc thực thi các lời khuyên Phúc Âm, các tu sĩ tự nguyện theo Đức Kitô với tinh thần tự do thanh thoát hơn, noi gương Người khăng khít hơn và mỗi người một cách tất cả đều sống tận hiến cho Thiên Chúa” (số 1a)
Bao lâu còn là tu sĩ chúng ta còn đang đi tìm Chúa. Mỗi người, mỗi lứa tuổi có cách thế tìm gặp Ngài khác nhau. Khi còn trẻ, chúng ta tìm đến đời sống tu với những háo hức của tuổi trẻ. Với năm tháng thời gian, những nhiệt tình ban đầu đó có thể phai nhạt dần. Khi gặp những nỗi buồn, chúng ta có thể chùn bước. Khi gặp những nghịch cảnh, chúng ta lại tính toán hơn thiệt. Đó là những lúc người tu sĩ gặp cơn cám dỗ “trả giá” trong đời tu, như các tông đồ ngày xưa đã đặt vấn đề với Chúa: “Theo Thầy, chúng con được cái gì đây?” Cách thế khác nhau, thành công và thử thách khác nhau, nhưng đều là đi theo Chúa. Lời Ngài hỏi Anrê, Gioan bên bờ sông Giodan hay Mađalêna buổi sáng hôm Phục Sinh luôn là lời cật vấn chúng ta.
Bây giờ, có người trong chúng ta đã nhiều năm tháng trong Hội Dòng, người ít thì cũng đang ở trong Học Viện. Chúng ta cũng có nhiều kinh nghiệm về đường đời có trăm ngàn lối rẽ, đường tu cũng có những khúc quanh. Không thể đi tìm Chúa, theo Chúa trong đời sống tu một cách chung chung, mà phải là đi trong linh đạo của một Hội Dòng, phải là sống ơn gọi trong một Hội Dòng .
Như thế, Hội Dòng rất cần thiết với chúng ta, những người theo Chúa trong ơn gọi tu trì… Giáo luật số 573,2 nói rõ: “Các tín hữu được tự do chấp nhận lối sống ấy! Trong các Hội Dòng sống đời thánh hiến đã được thẩm quyền Giáo Hội thiết lập theo giáo luật.”
Nơi đó, chúng ta tìm thấy con đường gặp Chúa. Hội Dòng trở thành mái ấm gia đình cho đời chúng ta và là Đất Hứa chúng ta sống đến trọn đời.
2/ Yêu mến Hội Dòng là tâm tình phải có của người tu sĩ .
Hội Dòng cần thiết cho ơn gọi của tu sĩ nên thái độ chúng ta phải có là yêu mến Hội Dòng.
Ngay từ khi còn trẻ, chúng ta tìm đến cửa nhà Dòng với nỗi khát khao trong tâm hồn, nhưng để làm gì?
Có phải vì chúng ta đã gặp một tu sĩ, rồi ngưỡng mộ và muốn trở thành một nữ tu? Có phải vì chúng ta muốn lánh xa trần thế? Hay vì muốn tìm ý nghĩa của cuộc sống? Chính mỗi người phải đối diện với vấn đề và tự tìm lời giải đáp cho mình. Những lý do đưa chúng ta vào Dòng lúc ban đầu không hẳn là vì chúng ta yêu mến, nhưng có thể vì những lý do khác nữa. Nhưng những lý do khiến chúng ta ở lại trong Dòng cho đến hôm nay chắc chắn phải do một động lực duy nhất là TÌNH YÊU.
Hầu hết chúng ta ở lại cho đến cùng, vì giống như Maria trong khu vườn buổi sáng hôm Phục Sinh, tình yêu thúc đẩy cô tới. Chúng ta đi tìm Chúa. Ơn gọi là một câu chuyện về nỗi khát khao kiếm tìm và chúng ta còn ở lại trong nhà tu là vì chúng ta đã “cắn câu” Tình Yêu.
Có người đã ví: “ Vì tình yêu tương tự như lưỡi câu của người ngư phủ. Ông ta không thể bắt được cá nếu cá không cắn câu. Khi con người móc vào lưỡi câu ấy thì bị “chộp” nhanh đến nỗi tay chân, mắt mũi, miệng lưỡi, trái tim và tất cả những gì của con người đó đều chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa.”
Thuộc về ai là phải yêu người ấy, thì sự lệ thuộc đó mới trọn vẹn. Thuộc về Hội Dòng là phải yêu mến Hội Dòng và Hội Dòng sẽ chi phối toàn thể con người của chúng ta. Vì thế, khi sống đời tu, người tu sĩ bị Hội Dòng chiếm lĩnh: Hình ảnh của Hội Dòng luôn có trong trí chúng ta, công việc Hội Dòng trong xương thịt chúng ta, sức sống Hội Dòng trong lòng chúng ta. Vì thế, muốn hay không, chúng ta đã bị ràng buộc vào Hội Dòng, cuộc đời chúng ta gắn liền với những sự kiện tinh thần và vật chất của Hội Dòng.
Hơn nữa, tự bản chất đời tu là: Đời sống ước mong và thực hiện Đức Ái trọn hảo. Công Đồng Vatican II đã viết: “Những lời khuyên Phúc Âm đưa đến Đức Ái và nhờ Đức Ai, những lời khuyên ấy kết hợp tu sĩ cách đặc biệt với Gíao Hội và với mầu nhiệm Giáo Hội” (GH 44b).
Như thế trong cuộc đời tu sĩ “Tình yêu bao trùm con người đến nỗi họ không còn thuộc về mình nữa, nhưng thuộc về Đức Kitô”(x. 1Cr 6,19).
Khi sống đời phục vụ nếu không được nung nấu bằng một tình yêu say mê đối với nơi mình hoạt động, công việc của chúng ta sẽ chỉ là những chuỗi ngày cằn cỗi. Có tình yêu với Hội Dòng chúng ta mới cảm thông được lo âu của những người có trách nhiệm và chân thành yêu thương chị em, để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ Đức Kitô (Ga 13, 35). Có yêu mến Hội Dòng chúng ta mới nhận ra được những nhiệm vụ cấp bách phải làm cho Hội Dòng.
3. Chúng ta phải làm gì để thực hiện tình yêu mến đó?
a/ Hiệp thông với Hội Dòng.
Mỗi người trong chúng ta là một chi thể của Hội Dòng. Sự hợp nhất giữa những chi thể trong một thâ nthể mật thiết thế nào, thì hợp nhất giữa chúng ta với Hội Dòng cũng phải khăng khít như vậy.
Hiệp thông với Hội Dòng là hiệp nhất là với các vị phụ trách Hội Dòng trong việc nhất trí với các việc làm và đường lối của các ngài, luôn quảng đại cộng tác với tâm tình siêu nhiên của Đức Tin và Đức Mến.
Hiệp thông với các chị em trong Hội Dòng là luôn tìm kiếm sự hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi người chúng ta đến từ một nơi khác nhau, từ những gia đình và môi trường xã hội khác nhau, nhưng lý tưởng đã san bằng mọi khác biệt. Sự hợp tác chân thành là điều kiện đầu tiên của một sự hợp tác hữu hiệu trong việc làm.
Yêu mến Hội Dòng là hiệp thông với đời sống thăng trầm của Hội Dòng. Vui cái vui của Hội Dòng, buồn cái buồn của Hội Dòng. Sự hợp nhất đáng mong ước nhất là chu toàn nhiệm vụ mà Hội Dòng đã trao phó cho chúng ta. Một trong những món quà đắt giá nhất mà chúng ta mang đến cho Hội Dòng là cuộc sống của chúng ta với những thất bại, những khó khăn và cả những giây phút đen tối nhất của cuộc đời.
Sự hiệp thông này được đặt trên nền tảng của các bí tích: Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành một nhiệm thể, Bí Tích Thánh Thể – Bí Tích của sự hiệp thông …
Khi đã có sự hiệp thông với Hội Dòng, chúng ta sẽ có tình yêu mến đối với chị em trong cộng đoàn.
b/ Xây dựng đời sống cộng đoàn:
Đời sống chung trong Hội Dòng là dấu chỉ đời sống hoàn hảo mai sau trên Nước Trời. Vì thế, ngườt ta vẫn gọi Hội Dòng hay tu viện là thành thánh Giêrusalem, nơi đó các tu sĩ sống dưới con mắt Thiên Chúa, trong sự vâng phục bề trên là đại diện Chúa Kitô trong cầu nguyện và làm việc chung với nhau. Đó là lý tưởng của đời tu.
Hơn nữa, trong bản tuyên khấn, mỗi khấn sinh đều đọc lên một cách xác tín: “… Với ơn Thánh Chúa và sự trợ giúp của chị em, con quyết trung thành với hy lễ hiến dâng.”
Thế nhưng, tại sao cuộc sống chung vẫn là một vấn đề ưu tư, thậm chí có khi còn là một vết thương đau mãi không lành. Tại sao sống với chị em, lẽ ra tôi sẽ gặp sự yêu mến và chân thành kính yêu, thì lại thấy những tị hiềm, ghen ghét? Lẽ ra tôi sẽ thấy những người nhiệt thành, đạo hạnh với nhiều đức tính cao đẹp, đàng này tôi lại đụng phải những thói hư, tật xấu. Thì ra, vì là con người, chị em tôi và tôi vẫn còn có những yếu hèn.
Giống như thuở ban đầu khi tạo dựng, Thiên Chúa dành cho con người vườn địa đàng, nhưng tổ tiên chúng ta phạm tội nên đất phát sinh gai góc và con người phải vất vả đổ mổ hôi sôi nước mắt mới có miếng ăn. Nơi Hội Dòng người tu sĩ hằng cầu xin để được ở lại mãi mãi, nhưng vẫn có chuyện buồn lòng. Người ta kể một chuyện vui: Sau khi qua đời, một nữ tu đến trình diện Chúa. Ngài bảo: “Khi sống ở trần gian con là nữ tu, đời sống chung đã là một cuộc đền tội, vậy bây giờ con không phải vào luyện tội nữa.” Đó chỉ là chuyện khôi hài thôi, chứ thật sự đời sống chung không phải luôn dễ dàng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn xác tín rằng đời sống chung với chị em sẽ giúp chúng ta sống trọn đức ái hoàn hảo.
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói trong số 39 của tông huấn Chứng tá Phúc Âm: “Sự sống chung là phương thế hữu hiệu nhất nâng đỡ nhau bằng gương sáng, bằng lời cầu nguyện, bằng sự chia sẻ lúc vui, khi buồn. Trở nên một người chị em là chịu nhận sức mạnh từ người khác vì “lời nói lung lay, gương lành lôi kéo.”
Giáo luật điều 665,1 đòi hỏi: “Các tu sĩ ở nhà Dòng của mình và giữ đời sống chung” và truyền thống Đaminh cũng luôn nhấn mạnh đến đời sống chung.
Đời sống chung của những người tu không xây dựng trên các cơ sở vật chất, dù đó là những tu viện đồ sộ, những trung tâm bác ái từ thiện lớn lao. Nó cũng không đặt nền tảng trên những lý thuyết trần gian như các tổ chức xã hội, kinh tế… nhưng trên nền tảng là THIÊN CHÚA BA NGÔI trên nền tảng này Chúa Giêsu đã kêu mời con người hiệp nhất với Ngài và với Thiên Chúa (Ga 17,11; 20-21).
Trong Ba Ngôi, các ngôi vị kết hợp nên một Thiên Chúa, mà thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” và “Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa.” Như thế trong đời sống cộng đoàn của đời tu, mỗi tu sĩ được ở trong Thiên Chúa, như Chúa Kitô cầu nguyện cho chúng ta: “Lạy Cha, xin cho họ nên một như Cha và Con là một”(Ga 17,11). Lời nguyện này Chúa Giêsu đã cầu xin cho mọi người nhất là cho các tu sĩ và giáo sĩ, để chúng ta hợp nhất với nhau bằng bác ái và tình huynh đệ. Thánh Thần tình yêu ở trong lòng từng người chúng ta, sẽ tạo nên sự hiệp nhất cần thiết cho cộng đoàn. Nhờ Thánh Thần, đời sống các tu sĩ trở nên sống động và có tổ chức, cùng cầu nguyện, cùng nhau nghe và suy niệm Lời Chúa, cùng nhau tham dự bàn tiệc Thánh, cùng nhau hoạt động, cùng nhau đi tìm Chúa theo mô hình cộng đoàn tín hữu tiên khởi ( Cv 2,46 ).
Do đó, khi xây dựng đời sống cộng đoàn là chúng ta biểu lộ lòng yêu mến Hội Dòng.
c. Hết tình phục vụ và sẵn sàng nhận lãnh những công tác được trao phó:
Chúng ta vẫn thường nói: “Đi tu là để phục vụ.” Việc hiến dâng của chúng ta phải đi liền với phục vụ để làm công việc của Chúa bằng việc tìm kiếm Thiên Chúa, cầu nguyện, tham dự các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể… đồng thời làm công việc của mình theo đoàn sủng của mỗi Hội Dòng (Sắc lệnh về “Canh tân và đổi mới các dòng tu”, số 8) và như thế, việc phục vụ Chúa đưa đến việc phục vụ Giáo Hội. Nên mỗi người tùy theo sức và ơn gọi của mình, bằng kinh nguyện hay bằng hành động tích cực, có bổn phận làm cho Nước Chúa Kitô ăn rễ sâu và vững mạnh trong các tâm hồn và phát triển trên khắp vũ trụ (GH 44).
Như thế, khi phục vụ, người tu sĩ làm cho những hình ảnh Giáo Hội đẹp hơn, và làm cho việc tông đồ có hiệu quả hơn. Và cũng làm cho hình ảnh của Hội Dòng được đậm nét hơn trong lòng Giáo Hội và xã hội. Đó cũng là cách diễn tả tình yêu của chúng ta với Hội Dòng.
Tuy nhiên, không phải ai trong chúng ta cũng có khả năng để phục vụ như nhau. Thánh Phaolô trong thư 1 Corinto đã nói về mầu nhiệm Hội Thánh: Trong Hội Thánh có nhiều chi thể và mỗi chi thể làm phận vụ của mình. Có người làm việc tông đồ tại các giáo xứ, người khác có khả năng chuyên môn, người khác có tài tổ chức… hay có chị em nhanh nhẹn, có chị em âm thầm… bề trên sẽ tùy theo nhu cầu mục vụ và huấn luyện mà trao cho chúng ta một công tác. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con, để các con đi và sinh nhiều hoa trái và để hoa trái của các con tồn tại” (Ga 15,16).
Yêu mến Hội Dòng là đón nhận bất cứ công tác nào được trao phó, dù đôi khi chúng ta không mấy hài lòng. Lúc đó, cuộc sống dù có là “chén đắng”, nhưng như một vị thánh kia đã nói: “Trong tình yêu sẽ không có đau khỗ và giả sử như có, thì đau khổ đó cũng là tình yêu”, chúng ta cũng sẽ cầu nguyện như Chúa Kitô: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho con khỏi chén đắng này, nhưng xin đừng theo ý con, mà chỉ vâng ý Cha mà thôi” (Lc 22,42).
d. Trung tín tuân giữ các giới răn và các lời khuyên Phúc Âm.
Là tín hữu, tu sĩ phải tuân giữ các giới răn của Chúa như mọi người con Chúa khác và hơn thế họ giữ một cách hoàn hảo vì tất cả mười điều răn ấy tóm về hai điều này là kính mến Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, nghĩa là thực hiện đức ái mà đời tu là để thực hiện đức ái hoàn hảo; Chúng ta cũng đọc được điều đó trong Tin Mừng. Khi người thanh niên muốn nên hoàn trọn đến với Chúa Giêsu, Người đã hỏi anh ta về điều kiện căn bản: Khi biết anh ta đã giữ trọn Chúa mới nói anh ta bán của cải, cho người nghèo khó rồi đến theo Chúa (Mc 10, 17-22). Ngày nay Giáo Hội nhắc nhiều tới việc huấn luyện nhân bản và Kitô giáo của các ứng sinh trước khi nhận vào nhà Tập và tuyên khấn, hẳn cũng muốn chú trọng đến tính cách con người và con Thiên Chúa, bao gồm trong các điều răn của Chúa. Người tu sĩ không được nại vào việc giữ các lời khuyên Phúc Âm mà lơ là các giới răn như Chúa đã khiển trách các kinh sư và người Pharisêu: “… Các điều này vẫn cứ phải làm mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23).
Khi mới bước chân vào Nhà Dòng, lúc còn là Đệ tử có lẽ ít ai trong chúng ta để ý đến việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm. Không có những bức xúc, trăn trở về vấn đề sống lời khấn, mà chỉ chú tâm tìm hiểu xem mình có hợp với lý tưởng đang theo đuổi không, để quyết định sống trong đó suốt đời. Nhưng khi vào nhà Tập, đặc biệt khi đã tuyên khấn, chúng ta được học hỏi kỹ hơn về ba lời khấn. Theo giáo luật 573,2, ba lời khuyên đó là độc thân, khó nghèo và vâng phục. Ngoài ra, một vài Dòng còn thêm những lời khấn khác như dòng Xitô: Lời khấn Vĩnh cư; dòng Tên: khấn Vâng phục Đức Giáo Hoàng, dòng Bệnh viện: Khấn phục vụ bệnh nhân) hoặc có dòng chỉ đọc một lời khấn như Dòng Đaminh chỉ đọc lời khấn vâng phục. Tuy nhiên, mẫu số chung và căn bản chỉ là ba lời khấn.
Việc tuân giữ các giới răn và ba lời khấn làm cho người tu sĩ trở thành con người theo Chúa có tính cách pháp lý và đúng qui cách hay nói cách khác, không phải là ở giữa bậc giáo sĩ và giáo dân (GH 43) mà là thể hiện toàn bộ lời khuyên Phúc Âm của Chúa thuộc phận vụ đoàn sủng – hình ảnh của người đi trọn hành trình mà Chúa muốn thể hiện khi loan giảng Giáo lý Nước Trời, cả điều truyền và điều khuyên.
Điều này trong thực tế, người ta cũng có thể dễ lệch lạc khi quá chú trọng về một phiá, nhất là về việc tuân giữ lời khấn mà dễ bỏ qua các giới răn.
KẾT :
* Trong cuốn sách “ Đời tu trong thế kỷ XXI” của Catharine M. Harmer tác giả đã viết về tương lai đời tu trong thế kỷ 21:
Hầu hết những gì ngày hôm nay người ta nói hay viết về đời tu trong tương lai thường đượm vẻ bi quan, như con số các tu sĩ ngày càng giảm sút, các cơ sở dòng tu lớn mà chỉ có vài người già, các tu sĩ ít hiện diện trong các môi trường tông đồ… Còn tác giả lại nghĩ khác. Một hình ảnh mà Catharine Harmer đem ra so sánh đó là đoạn văn của Sách Dân số chương 13 và chương 14: Khi đoàn dân du mục Israel đến bên bờ ĐẤT HỨA, Môisê cử những thám tử ra đi và trong vòng 40 ngày, họ thám hiểm miền đất này, do thám những thành thị và dân cư. Lúc trở về họ báo cáo với Maisen rằng xứ này rất đẹp, song dân cư lại là những con người khổng lồ và những thành phố là những pháo đài. Họ tiên liệu một thất bại khủng khiếp sẽ xảy đến cho đoàn dân trước sức mạnh của cư dân Canaan, và họ đã kêu trách Chúa, đòi nổi loạn và trở về Ai Cập. Nỗi khiếp sợ đã làm họ mất đi lòng TIN YÊU vào Thiên Chúa.
Chỉ có 2 người là Caleb thuộc chi tộc Giuđa và Giosuê thuộc chi tộc Benjamin là quả quyết: Họ sẽ chinh phục được đất này. Họ nắm trong tay bí quyết để chiến thắng, đó là “Thiên Chúa toàn năng ở với họ và nếu họ làm đẹp lòng Thiên Chúa, thì đất Canaan sẽ được giao vào tay họ theo như lời hứa của Thiên Chúa {x. Ds 14 5-9}.
Mỗi người tu sĩ chúng ta là những Caleb và Giosuê của thời đại mới. Chặng đường của cuộc hành trình ơn gọi đã qua cho chúng ta nhận ra muôn vàn hồng ân yêu thương của Thiên Chúa . Vì thế đứng trước tương lai, ta cũng phải tin tưởng vào Chúa mà tiến bước. Hồi xưa, người Do Thái có quên đi manna, những cột lửa, cột mây và biến cố vượt qua Biển Đỏ, để chùn bước không dám tự tin khi bước vào Đất Hứa. Ngày nay, chúng ta cũng phải như Caleb và Giosuê, đừng bao giờ quên những kỳ công của Chúa thực hiện trong lịch sử đời tu của cá nhân và lịch sử Hội Dòng. Vì thế, chúng ta vẫn can đảm bước vào trong ơn gọi với sự xác tín vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ, Giám mục Phú Cường khi được tấn phong Giám mục đã chọn khẩu hiệu: yêu rồi hành động. Bí quyết của chúng ta cứ yêu mến và Thiên Chúa giúp chúng ta thực hiện.
Tin vào Chúa để bước tới, sẽ giúp chúng ta bình an phó thác đời mình cho Hội Dòng. Tâm lý con người thường thích những cái mới lạ, muốn đến những chân trời xa. Bị ảnh hưởng bởi tâm lý xã hội, đôi khi chúng ta hay chê bai Hội Dòng mình, cảm thấy mình không bằng hay không giống Dòng khác và lúc đó chúng ta bất an.
Có một câu chuyện khá lý thú: Một con chồn khi lớn lên, nó luôn ngửi thấy đâu đây thoang thoảng một mùi hương. Và nó bị quyến rũ bởi mùi vị hấp dẫn ấy. Từ đó nó ra đi, hết khe núi này đến ngọn đồi khác. Nó leo lên cây cao, rồi nó chui vào cả trong các bụi rậm. Nó đi đêm đi ngày, nhưng chẳng bao giờ nó bắt gặp được kho tàng hương thơm kia. Nhưng mùi hương lạ vẫn gần đâu đây như kêu gọi mời chào nó tiếp tục kiếm tìm. Thế là nó lại chạy, chạy mãi cho đến khi nó mệt nhoài, không còn đủ sức, nó gục ngã. Trong cơn hấp hối, nó le lưỡi liếm những giọt mồ hôi chảy dài trên khuôn mặt. Nó lại thấy mùi hương dịu dàng và quyến rũ. Nó chợt hiểu, nhưng đã quá muộn. Tự nó có mùi hương.
Chúng ta đừng mải tìm kiếm đâu xa. Tự ơn gọi của chúng ta là “mùi hương” và có những nét đẹp mà chúng ta phải giữ gìn cách trân trọng. Khi chúng ta yêu mến Hội Dòng là chúng ta nắm giữ bí quyết yêu mến và giữ gìn ơn gọi của mình.
Thuyết trình viên: Tập Sinh