Ý nghĩa Mầu Nhiệm Vượt Qua

0
Ý NGHĨA MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
                    
1. Từ ngữ

Từ “mầu nhiệm”, Hilạp : musterion, thường có nghĩa là điều bí ẩn, điều được giấu kín. Trong lãnh vực tôn giáo, đặc biệt là những “huyền giáo” trong xã hội cổ Hilạp, từ này được dùng để chỉ một số nghi lễ khai tâm, đưa người thọ giáo đến với các thần minh. Các huyền giáo thịnh hành ở Hilạp, Rôma và Aicập, khoảng từ thế kỷ thứ VI trước Công nguyên đến tận thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Người thọ giáo phải trải qua những nghi thức Thánh tẩy bằng nước và lửa, giữ chay tịnh, tham dự những buổi cầu nguyện và những lớp giáo huấn dưới dạng kịch sân khấu. Dĩ nhiên, họ buộc phải bảo mật hoàn toàn.

Từ musterion cũng xuất hiện trong KINH THÁNH, nhất là trong những THƯ của Thánh PHAOLÔ. Có một thời người ta nghĩ rằng Thánh Phaolô chịu ảnh hưởng của những tôn giáo nói trên. Nhưng ngày nay, chúng ta được biết là chính truyền thống Do Thái giáo mới là cơ sở suy tư của Thánh Tông đồ.

Theo Thánh Phaolô, mầu nhiệm là việc Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ loài người, nhờ sự chết và sự sống lại của Đức Kitô. Đó chính là bí mật của Thiên Chúa, vượt mọi khả năng hiểu biết của loài người, nhưng đã được Thiên Chúa tỏ bày qua Đức Kitô (1 Cr 2,7; Ep 3,5-6). Thánh Phaolô nói ngắn gọn : “Mầu nhiệm, chính là Đức Kitô ở giữa anh em” (Cl 1,27).

2. Mầu nhiệm – Bí tích

Vào cuối thế kỷ thứ 4, các Giáo Phụ nhấn mạnh rằng : “Đức Kitô ở trong chúng ta, niềm hy vọng vinh quang”  là bản chất của các bí tích Kitô giáo. (Từ “mầu nhiệm”, musterion được dịch ra la ngữ, sacramentum, bí tích). Các ngài dùng từ ngữ để áp dụng vào việc khai tâm Kitô giáo : cụ thể là phép Thánh tẩy, phép Thêm Sức, cả hai được kể là bí tích chuẩn bị cho bí tích Thánh Thể và ba bí tích này đưa người tín hữu vào mầu nhiệm Thập giá Cứu Độ của Đức Kitô. Những bài huấn giáo cho người dự tòng của Thánh Cyrilô thành Giêrusalem được gọi là “Những huấn giáo dẫn vào các mầu nhiệm” (Catéchèse mystagogiques) và bài suy niệm về phụng vụ Thánh Thể của Thánh Maximô có tên là “Dẫn vào các mầu nhiệm” (Mystagogie).

Như vậy, người kitô hữu, khi lãnh nhận các bí tích, họ không phải là những người đã được cho tiếp cận với những kiến thức bí ẩn, thuộc lãnh vực tôn giáo hay triết học. Họ thực sự được tham dự vào Tình Yêu cứu độ, tiếp cận với Thiên Chúa làm người, Đấng đã cứu vớt và đưa con người tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa, vào “mầu nhiệm Cứu Độ”.

Trong quá trình triển khai năm phụng vụ, Giáo Hội tuần tự tưởng niệm việc Ngôi Hai xuống thế làm người, rao giảng Tin Mừng và thi hành ý định của Chúa Cha cho đến chết trên Thập giá và sống lại vinh quang. Vì thế, từ “mầu nhiệm” cũng được dùng với số nhiều : người ta nói đến những mầu nhiệm của Đức Kitô, để chỉ những sự việc liên quan đến cuộc đời của Đấng Cứu Thế. Đặc biệt là sự Thương khó, sự chết và sống lại của Người. Đó là MẦU NHIỆM VƯỢT QUA, có liên quan với lịch sử dân Israel.

3. Lễ Vượt Qua

Theo lịch sử, thoạt tiên, lễ Vượt Qua là lễ của dân tộc Sêmít mừng đón mùa xuân trở lại, với cỏ cây hoa lá xanh tươi. Lễ hội này lại trùng với một biến cố quan trọng của dân Israel: Israel được thoát ách nô lệ của người Ai cập (Xh 12,23). Từ “Vượt Qua” theo tiếng Hípri: pasah (đi qua) mang ý nghĩa là “miễn trừ”. Theo lệnh của Thiên Chúa, nhà lãnh đạo Môsen yêu cầu vua Pharaon để cho dân Israel về Đất Hứa. Nhà vua không tuân lệnh Thiên Chúa và bị trừng phạt bằng nhiều tai họa. Một tai họa chót là các con đầu lòng sẽ bị giết, trừ con cái Israel, khi Thiên Chúa “vượt qua” khỏi các nhà của họ, nhờ máu chiên ghi trên các cửa nhà họ.

Sau đó, ý tưởng: Thiên Chúa vượt qua để cứu con cái Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, được nối kết với ý tưởng: dân Israel cũng được đi theo Thiên Chúa, vượt qua đất Ai cập trở về Đất Hứa. Như thế, từ đây Israel mừng lễ Vượt Qua để tưởng niệm sự can thiệp tiêu biểu của Thiên Chúa để giải thoát con cái Israel và gầy dựng dân tộc của Ngài là Israel.

Cho nên, sau kiếp lưu đày Babilon, cuộc trở về nguyên quán của Israel sẽ được mô tả như một cuộc Xuất hành mới, một lễ Vượt Qua mới (Hs 2,16 ; Is 63,7). Thánh Luca nói đến cái chết của Chúa Giêsu như một sự xuất hành, phải được thực hiện tại Giêrusalem (Lc 9,31). Chương 13,1 của Thánh Gioan nói về việc Chúa Giêsu bỏ thế gian về với Chúa Cha, thực hiện một cuộc Vượt Qua mới.

Đối với người kitô hữu, việc cử hành lễ Vượt Qua trở thành việc tưởng niệm Đức Kitô chịu đau khổ, chịu chết và sống lại vinh quang. Người đã trở về với Chúa Cha qua con đường Thập giá và đem chúng ta theo sau Người, không phải từ miền đất Ai cập vật chất đến phần Đất Hứa cũng không kém vật chất. Nhưng từ vương quốc tối tăm đến vương quốc của Chúa Con (Cl 1,13).

Cử hành lễ Vượt Qua của Đức Kitô, chúng ta được Giáo Hội mời gọi tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua, nghĩa là nhờ và cùng với Đức Kitô, chúng ta mỗi người phải thực hiện cuộc Vượt Qua ngay trong chính đời sống chúng ta.

Ý NGHĨA NGÀY CHÚA NHẬT LỄ LÁ 

KÍNH NHỚ SỰ THƯƠNG KHÓ CHÚA KITÔ

Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ ngày này khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu từ một địa điểm ngoài nhà thờ và tiến vào nhà thờ. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm sự Thương khó, đặc biệt với việc đọc bài Thương khó theo Thánh Matthêu.

Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau : mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Có liên quan gì giữa hai sắc thái đó chăng ? Có thể giải thích theo phương diện lịch sử : phản ánh sự thay lòng đổi dạ của người Do thái. Họ tung hô Chúa Cứu Thế ngày Chúa nhật, và ít ngày sau, ngày thứ sáu, họ đòi lên án tử hình Người. Tuy nhiên, cách giải thích không đúng. Bởi lẽ cuộc tung hô ngày Lễ Lá phát xuất từ phong trào quần chúng tự động, còn tiếng la hét đòi lên án tử Chúa có thể là do nhóm Biệt phái và Thượng tế xách động [1].

Thật ra, cuộc khải hoàn của Chúa Kitô không phải là một thứ lửa rơm, bạo phát bạo tàn. Nhưng đó là một dấu chỉ, dù tạm thời, của một chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu không  phải để giúp chúng ta tạm quên giai đoạn đau khổ của Chúa. Trái lại, là cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa đích thực của thống khổ và Thập giá. Chúng ta thấy trường hợp tương tự trong biến cố BIẾN HÌNH. Chúa cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang của Chúa, đang khi Người đàm đạo với Môisen và Êlia về cái chết của Người (nguyên tự : xuất hành) ở Giêrusalem (Lc 9,31). Khi xuống khỏi núi, Chúa Giêsu ra lịnh cho ba tông đồ phải bảo mật, cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, Mt 18,9, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ đó sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế để rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).

Nghi lễ Lễ Lá khuyến cáo chúng ta trước: ngay cả Thứ Sáu Tuần Thánh cũng là một lễ chiến thắng của Chúa. Ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của MẦU NHIỆM VƯỢT QUA được trình bày rõ ràng : đó là sự vượt qua chốn tối tăm đến vùng ánh sáng, vượt qua sự chết đến Phục sinh, vượt qua tủi nhục đến vinh quang.

Đành rằng Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, kế đến là khổ nạn. Nhưng thứ tự đó không chỉ đi sát thứ tự các sự kiện đã xảy diễn, mà còn biểu lộ thực chất của MẦU NHIỆM VƯỢT QUA. Chúng ta có thể tưởng rằng : trước tiên là cái chết tủi nhục, và kế đến là Phục sinh vinh quang được coi như là một màn kết thúc tình cờ và may mắn. Nhưng thực sự, MẦU NHIỆM VƯỢT QUA, tự cơ bản, là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Trong quá trình này, sự chết chỉ là một bước đi qua, một phương tiện để đạt tới mục đích. Mục đích đó là VINH QUANG. Thánh Gioan dùng từ “vinh quang” để chỉ một trật việc Chúa Kitô chết, sống lại và lên trời.

Ý NGHĨA NGÀY THỨ NĂM TUẦN THÁNH

 1. Thánh Lễ Dầu

Thánh lễ DẦU qui tụ Giám mục và Linh mục đoàn Giáo phận để nói lên và củng cố tinh thần hiệp nhất và sự hiệp thông giữa vị chủ chăn và các cộng sự viên của ngài.

Khi cử hành thánh lễ Tiệc Ly, chúng ta thi hành điều Chúa Kitô đã thi hành và truyền dạy chúng ta phải làm mà nhớ đến Người. Còn khi cử hành lễ Dầu và làm phép Dầu, Đức Giám mục không lặp lại những cử chỉ của Chúa; Nhưng tiếp tục một truyền thống cổ kính của Giáo Hội nhằm chuẩn bị cho các cử hành bí tích.

Có ba thứ dầu: DẦU BỆNH NHÂN, chữ tắt Latinh: OI; DẦU DỰ TÒNGOC; và DẦU THÁNHSC. Dầu thánh (gọi chung cho ba thứ) không phải là bí tích, nhưng cần thiết cho việc cử hành các bí tích. Dầu thánh cần thiết tuyệt đối cho hai bí tích: Xức Dầu Bệnh Nhân và Thêm Sức. Dầu thánh còn là chất liệu cho nhiều á bí tích: những á bí tích sửa soạn và bổ túc bí tích Rửa Tội, trước và sau khi Rửa Tội. Bí tích Thánh Thể: Dầu được dùng trong việc thánh hiến nhà thờ, bàn thờ và chén thánh. Bí tích Truyền Chức: xức tay Linh mục, xức đầu Giám mục.

Các bí tích được thiết lập và ban phát để xây dựng Nhiệm thể Chúa Kitô trong sự hiệp nhất, nhờ Chúa Thánh Thần là Nguyên lý hiệp nhất. Do đó, Dầu thánh được kể là hình ảnh của Thánh Thần. Cũng như dầu, Thánh Thần là sức mạnh, là sự dịu dàng, sung mãn và niềm vui, lan tỏa và thấm nhập. Khi thánh hiến dầu, Đức Giám mục kêu cầu Thánh Thần ban ơn an ủi (Dầu Bệnh Nhân), khôn ngoan và sức mạnh (Dầu dự tòng), thần lực (Dầu thánh), và gọi việc xức dầu là XỨC DẦU THÁNH THẦN (lời nguyện thánh hiến Dầu).

Sự hiệp nhất là chủ đề chính của Thứ Năm Tuần Thánh. Vì thế, toàn Giáo phận, buổi sáng chỉ có một thánh lễ duy nhất, Thánh Lễ Dầu, và các Linh mục đồng tế với Giám mục, biểu lộ tình liên đới thiêng liêng của tất cả những người được Thiên Chúa kêu gọi tham dự vào Thánh chức Tư tế duy nhất của Chúa Kitô một cách đặc biệt. Cũng trong Thánh lễ đồng tế này, các Linh mục hiện diện được Giám mục chủ tế mời gọi lặp lại những lời hứa Linh mục trước mặt Giám mục và trước mặt dân thánh của Thiên Chúa. Đồng thời, Giám mục cũng mời gọi cộng đồng giáo dân cầu nguyện cho các Linh mục.

2. Thánh lễ Tiệc Ly với Nghi Thức Rửa Chân

Ý hướng chính của Thánh lễ Thứ Năm Thánh được biểu lộ ở câu đầu Phúc Âm theo Thánh Gioan:“ Chúa Giêsu biết đã đến giờ VƯỢT QUA thế gian này mà về với Cha, Người đã thương yêu những người thân ở thế gian, thì Người yêu thương họ đến cùng”. Chúng ta liên tưởng ngay đến lễ Vượt qua ghi trong sách Xuất Hành 12,11.17. Vì thế, Thánh lễ Thứ Năm này không chỉ thu gọn vào việc Chúa lập bí tích Thánh Thể. Vì việc Chúa lập bí tích Thánh Thể được đặt vào trong cuộc Vượt Qua của Chúa, để như một khởi điểm mang đầy ý nghĩa. Điều Chúa làm hôm nay và ngày hôm sau biểu lộ tột đỉnh tình yêu của Chúa. Thánh Gioan gọi đó là một kiệt tác: “Đến cùng” theo Hi ngữ: đến tột độ, tối đa, tuyệt vời.

Trong chương 13, sau lời dẫn đầu rất long trọng, Thánh Gioan không thuật lại việc Chúa lập bí tích Thánh Thể như trong ba Phúc Âm khác. Thế vào đó, Thánh Gioan thuật lại việc Chúa rửa chân cho các tông đồ, như là một việc quan trọng. Hơn nữa, việc rửa chân, nếu không phải là việc tương đương, ít ra cũng quan hệ mật thiết với việc lập bí tích Thánh Thể.

Việc rửa chân được trình bày như một bài giáo lý về bí tích Thánh Thể, bài huấn dụ về bác ái, giới răn mới được công bố ngay sau việc thiết lập Thánh Thể: phải có giới răn mới cho bí tích mới. Vì nếu Thánh Thể là trung tâm và chóp đỉnh của việc phượng tự và mầu nhiệm đạo Chúa, thì bác ái là cốt lõi, là A (Alpha) và W (Omega) của đời sống Kitô giáo. Chúng ta lưu ý đến một đặc điểm quan trọng: đó là “Như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12); “Như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15).

Chúng ta có thể đi xa hơn mà thấy rằng: Thánh Gioan thay thế việc thiết lập Thánh Thể bằng việc Chúa rửa chân các tông đồ. Thực thế, chúng ta cũng gặp trong nghi thức rửa chân hai điểm chính yếu của bí tích Thánh Thể: đó là HIỆP THÔNG HY TẾ.

Hiệp thông: “Nếu Thầy không rửa con, con sẽ không được phần nào với Thầy”. Phần sau câu này, theo cách nói của người sêmít, có nghĩa là : “Vì không hiểu được tinh thần của Thầy, Phêrô tự tách rời hiệp thông với Thầy, không được dự phần vào công việc và vinh quang của Thầy[2].

Hơn nữa, theo Thánh Luca 22,24-27, cũng trong buổi tối đó, các tông đồ có tranh nhau về chỗ nhất. Do đó, cử chỉ rửa chân của Chúa nhắc khéo các ngài phải đoàn kết trong tinh thần tương trợ, phục vụ lẫn nhau, thay vì thống trị nhau.

Hy tế: Cách ăn mặc và cử chỉ rửa chân là của người tôi tớ phục vụ chủ nhà. Việc và cách Chúa Giêsu làm gợi chân dung người TÔI TỚ THIÊN CHÚA, được diễn tả trong Isaia chương 53. Vả lại, trong lần huấn từ về tinh thần phục vụ (Mt 10,24-28), Chúa Giêsu nói tiếp: “Như thế Con Người không đến để được người ta phục vụ, mà đến để phục vụ và thí mạng mình để chuộc mạng nhiều người”. Phần sau câu nói như là một vang âm của Isaia đoạn 5.6.8.10.11.12.

Và đây hai điểm “Hiệp thông và Hy tế” trong bài trình thuật của Thánh Phaolô về việc Chúa lập Thánh Thể:

– Hiệp thông: “Các con hãy cầm lấy mà ăn”.

– Hy tế: “Này là Mình Thầy, bị nộp vì các con”.

– Hy tế: “Chén này[3], chén gợi lên cuộc khổ nạn.

– Hiệp thông: “là Giao ước mới”, vì Giao ước liên kết loài người với nhau và với Thiên Chúa ; đồng thời, sắc thái hy tế cũng rõ, vì Giao ước được ký kết trong Máu đổ ra (Xh 24,6; xem 1Cr 11,20-32).

Hai phương diện cốt yếu của bí tích Thánh Thể cũng thấy được trong cuộc Thương khó, bởi vì Chúa Giêsu chết “để qui tụ các con cái Thiên Chúa đã bị tản mác” (Ga 11,52), và đồng thời để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa Cha (Rm 5,10; Ep 2,18).

Hai phương diện chính yếu của bí tích Thánh Thể – Hy tế và Hiệp thông – cho ta thấy vai trò của bác ái. Đức ái vừa là linh hồn của sự hy sinh, vì nhờ đó việc đổ máu và đau khổ mới có giá trị cứu chuộc,  vừa là linh hồn của cộng đoàn kitô hữu,  vì bác ái chính  là sự sống của cộng đoàn, biến cộng đoàn thành một thân thể.

Những suy tư trên đây có thể giúp chúng ta nhận định đúng mức về Mầu nhiệm Thánh Thể. Thực vậy, bí tích Mình Máu Thánh Chúa không chỉ là đối tượng để cho chúng ta sùng kính thờ lạy mà thôi. Nhưng phải kể là một Vượt Qua, phát xuất từ tình yêu kiệt tác của Chúa, và dẫn đến Thương khó để thiết lập Giáo Hội, kết hợp mọi người với nhau trong hiệp thông với Mầu nhiệm Chúa Kitô chết và sống lại. Như thế, chúng ta thấy được tại sao Thánh Gioan, qua mấy thế hệ từng cử hành bí tích Thánh Thể, không muốn thuật lại việc Chúa lập bí tích. Nhưng Thánh sử thần học gia này muốn nói lên ý nghĩa sâu xa của bí tích qua việc Chúa rửa chân cho các tông đồ. Và chúng ta cũng hiểu tại sao chính trong Thánh Lễ tưởng niệm Chúa lập Bí tích Tình Yêu, nghi thức Rửa chân còn được cử hành [4].

3. Thánh Lễ Đầu Tiên

Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.

Hiện nay, việc cử hành Thánh Lễ vào buổi chiều là việc quen thuộc. Do đó, chúng ta ít lưu ý đến thời điểm cử hành lễ Tưởng niệm Tiệc Ly của Chúa. Đây là thời điểm thích ứng nơi biến cố Phúc Âm, vì Thánh Lễ đầu tiên đã được cử hành vào bữa ăn tối (Ga 13,20).

Tính cách đầu tiên của Thánh Lễ này còn được nhấn mạnh trong Kinh nguyện Thánh Thể : “HIỆP CÙNG HỘI THÁNH, chúng con mừng ngày cực thánh, ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con đã trao cho các môn đệ quyền cử hành mầu nhiệm Mình Máu Người. Trong lời Truyền phép : “Hôm trước ngày chịu nạn để cứu độ chúng con và mọi người, tức là hôm nay”.

Để làm nổi bật tính cách đầu tiên, những chỉ dẫn chữ đỏ đòi buộc cử hành Thánh Lễ Tưởng niệm Tiệc Ly nơi bàn thờ không có Mình Thánh Chúa. Cộng đoàn tham dự rước lấy Bánh Thánh được truyền phép ngay trong buổi lễ này mà thôi. Và trong cử hành Tưởng niệm cuộc Khổ nạn của Chúa ngày hôm sau, giáo dân cũng như giáo sĩ sẽ rước lấy Bánh Thánh đã được truyền phép trong Thánh Lễ Thứ Năm Thánh. Và điều này cũng nói lên mối liên kết giữa bí tích Thánh Thể và Thập giá.

Thứ Năm Thánh: ngày tưởng niệm Tiệc Ly của Chúa, tưởng niệm việc Chúa lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức. Do đó, đây thật là ngày LINH MỤC. Mỗi Linh mục đều ghi nhớ ngày lãnh chức Linh mục của mình. Nhưng ngày Thứ Năm Thánh là ngày chung cho tất cả, vì chức Linh mục đã bắt đầu từ hôm nay. Cũng như mỗi kitô hữu đều lãnh bí tích Rửa Tội có thể thường là không trùng ngày nhau. Tuy nhiên, ngày sinh nhật chung cho tất cả chính là ngày lễ Phục sinh, vì chính từ Đức Kitô Phục sinh mà ơn tái sinh được thông ban cho ta.

Chức Linh mục bắt nguồn từ bữa Tiệc Ly của Chúa. Bài Phúc Âm Thánh Lễ Thứ Năm Thánh kể lại việc Chúa rửa chân cho các tông đồ. Chúng ta đã thấy Chúa làm công việc của người tôi tớ. Do đó, để đáp ứng với lời mời gọi của Chúa :

Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, người Linh mục hôm qua, hôm nay cũng như ngày mai đều cố gắng thể hiện tinh thần PHỤC VỤ. Và coi đó là tất cả đời sống và hoạt động của người Linh mục, cũng như đó đã là tất cả cuộc đời cứu độ của Thầy chí thánh. Người đã đến để phục vụ [5].

4. Thức Với Thầy

Trong nghi thức Thánh Lễ này, có việc kiệu đưa Mình Thánh sang một chỗ nơi bàn thờ khác, để chiều hôm sau, Linh mục cho rước lễ. Từ sau Thánh Lễ cho đến nửa đêm, Giáo Hội khuyên mời tín hữu đến kính thờ. Đây không phải là lúc tổ chức những phiên chầu lượt long trọng để suy tôn Thánh Thể như trong ngày Lễ trọng Mình Máu Thánh hoặc phiên Chầu quanh năm ở xứ đạo.

Mình Thánh được cất trong Nhà Tạm, chớ không đặt ra ngoài trên bệ trang trọng. Như thế cũng không có nghĩa là để kính nhớ Mồ, nhớ Chúa được mai táng trong mồ. Chúng ta chỉ tưởng niệm Chúa chết vào ngày hôm sau mà thôi.

Đây là nơi hẹn gặp gỡ: những người bạn thân, những đồ đệ tâm huyết nghe tiếng Chúa mời gọi qua lời: “Các con không thể thức với Thầy, thức một giờ với Thầy sao?”.

Đây là lúc chúng ta ở bên cạnh Chúa để suy ngắm bài học mà Chúa đã ban cho trong bữa ăn chia tay với các tông đồ, bài học mà Chúa sẽ ghi khắc bằng Máu trên Thập giá ngày hôm sau.

Đó là bài học về tình yêu: Yêu thương là phục vụ. Bài học được Giáo Hội muốn chúng ta ghi tạc trong thâm tâm và trong đời sống qua việc cử hành lễ Tưởng niệm Tiệc Ly của Chúa hôm nay.

Trong những phút giây bên cạnh Chúa, chúng ta thành khẩn gởi gắm cho Chúa:
– Những người đã được Chúa thương cho tham dự vào thánh chức Linh mục của Người.
– Những người đang trên con đường nghe theo tiếng Người kêu mời hiến dâng cuộc đời phục vụ Chúa.
– Những người đang gặp yếu đuối, khó khăn thử thách trên các nẻo đường bước theo Thầy.

Ý NGHĨA NGÀY THỨ SÁU TUẦN THÁNH: CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA

Để tỏ bày tâm tình cảm thông sự thương khó và sự chết của Chúa, Giáo Hội đình chỉ việc cử hành Thánh Lễ trong ngày thứ sáu và thứ bảy tuần thánh. Thông thường khi nói đến thứ sáu, ngày Chúa chết, chúng ta nghĩ tới đau thương buồn thảm. Giáo Hội không coi nhẹ những nỗi khổ đau thể xác và tâm hồn của Chúa Cứu Thế. Nhưng luôn kính nhớ và cảm mến Đấng đã tự nguyện hy sinh để cứu chuộc chúng ta. Nhất là trong ngày thứ sáu tuần thánh, Giáo Hội vẫn nhớ lời cảnh cáo những phụ nữ thành Giêrusalem: “Đừng khóc trên Ta, song hãy khóc trên các bà và con cái các bà” (Lc 23,28).

Lễ cử hành phụng vụ không để chúng ta dừng lại với những tình cảm u buồn ủy mị, nhưng giúp chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm Thập giá, thương khó và sự chết của Chúa.

1. Phụng Vụ Lời Chúa

Bài đọc I trích đoạn lời sấm của Isaia, thường được gọi “Bài ca của NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ”. Isaia mô tả trước về Đấng Cứu Thế, qua hình ảnh một con người chịu đau khổ vì tội lỗi chúng ta, và nhờ đó, giao hòa chúng ta với Thiên Chúa và đưa chúng ta đến chiến thắng vinh quang với Người.

Bài đọc II trình bày Đức Kitô biết cảm thông với tất cả những ai gặp gian truân sầu khổ, vì chính Người đã đi qua con đường khổ giá. Người đã hoàn toàn vâng phục ý Cha, nên lời cầu bầu của Người rất hiệu lực.

Bài Thương khó theo Thánh Gioan. Chính Thánh Gioan là người đã đề cao nhất tính cách tự nguyện của Chúa trước cái chết: “Không ai cất mạng sống Ta được, chính Ta tự mình thí mạng sống Ta” (Ga 10,18). Và cái chết tự nguyện của Chúa đem lại hiệu quả vô cùng quan trọng: “Và Ta, một khi được nhắc lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta” (12,32). “…Đức Giêsu sẽ chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, mà còn để thâu họp con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (11,52).

Trong bài Thương khó, Gioan cho chúng ta thấy Chúa cư xử với Giuđa và những kẻ đến bắt mình, với Caipha và Philatô, không như một nạn nhân bị rượt bắt và cố tìm cách thoát thân. Chúa cư xử như một vị tư tế đầy nghị lực, ý chí và sáng suốt, như một vị vua uy nghi, cần nói hay làm thinh tùy ý. Người có quyền định đoạt về vương quốc của Người, một vương quốc vượt trên mọi vương quốc trần gian.

2. Lời Nguyện Phổ Quát

Phụng vụ Lời Chúa được kết thúc bằng những lời nguyện trọng thể. Nếu chỉ dừng lại ở sự Thương khó của Chúa Kitô, ắt hẳn Giáo Hội sẽ kết thúc bằng những lời than khóc bi ai. Trái lại, sự Thương khó và sự chết của Chúa có giá trị cứu độ. Sự chết qua đi, nhưng chức tư tế của Chúa Kitô trường tồn: “Người giữ chức tư tế muôn đời … Do đó, Người có thể cứu vớt các kẻ lại gần Thiên Chúa nhờ Người cho đến kỳ cùng, vì Người hằng sống luôn luôn mà chuyển cầu cho họ” (Dt 7,27).

Mười lời nguyện đều dâng lên Chúa Cha, Đấng đã chấp nhận hy lễ Thập giá của Chúa Con. Và kết thúc qua Vị trung gian duy nhất là Đức Kitô.

Hơn nữa, vì Chúa Kitô đã chết cho toàn thế giới và “muốn cho mọi người được cứu vớt” (1Tm 2, 4), cho nên những lời nguyện có chiều kích phổ quát: cầu xin cho toàn thể dân Chúa, cho dự tòng, cho người tin hay không tin, cho những người hữu trách xã hội,…

Lời cầu xin của Giáo Hội không phải là lời cầu của một phe nhóm kép kín, nhưng có tính truyền giáo. Cũng không giới hạn vào những nhu cầu và lợi ích thiêng liêng, mà còn quan tâm đến nhu cầu trần thế, đến nền hòa bình của các quốc gia dân tộc.

3. Thờ Lạy Thánh Giá

Nếu chúng ta so sánh việc cử hành phụng vụ ngày thứ sáu tuần thánh với Thánh Lễ, chúng ta có thể ghi nhận: có phần phụng vụ Lời Chúa, kết thúc bằng lời nguyện tín hữu. Việc thờ lạy Thánh Giá đối ứng với cao điểm là Truyền Phép. Và mọi cử hành đều kết thúc bằng việc hiệp lễ.

Thập giá chúng ta thờ lạy hôm nay là dấu chỉ chính Đức Kitô. Chính Đức Kitô là đối tượng của việc thờ lạy, không phải qua bí tích Mình Máu của Người, nhưng qua dấu chỉ cuộc chiến đấu và thắng trận của Người.

Vì thế, việc thờ lạy Thánh giá là một hành vi đức tin. Phải có lòng tin mới dám bày tỏ lòng tôn kính một dụng cụ cực hình khủng khiếp và sỉ nhục nhất. Người kitô hữu chúng ta, dưới ánh sáng đức tin, xuyên qua dụng cụ khổ giá, nhận ra người Thầy đã đón nhận Thập giá để cứu chuộc loài người chúng ta. Vì Thập giá được đồng hóa với mầu nhiệm Cứu Chuộc nên chúng ta bái quì và hôn kính Thánh giá.

Khi thờ lạy hôn kính Thánh giá, chúng ta vừa tưởng nhớ đến những thống khổ và nhục hạ Chúa đã tự nguyện đón nhận, vừa tỏ lòng thán phục và cảm tạ những hồng ân Chúa ban cho chúng ta nhờ cây Thánh giá. Chúng ta hiệp thông với Người qua việc hiệp lễ.

4. Hiệp Lễ

Sự hiệp lễ hôm nay là trường hợp duy nhất trong phụng vụ. Sự kiện này cho chúng ta thấy hai cục diện của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Cục diện tang chế, vì Thánh Lễ là một lễ hội. Hôm nay và ngày mai, Giáo Hội không cử hành Thánh Lễ. Giáo Hội phải ăn chay trong những ngày Tân Lang bị cất dời đi (Mt 9,15). Tuy nhiên, Tân Lang vẫn hiện diện qua bí tích Thánh Thể. Không một việc tưởng niệm nào về cái chết của Chúa có thể làm cho chúng ta quên rằng: Người đã sống lại và đang sống giữa chúng ta, và Thánh Thể vẫn là Bánh ban sự sống. Hơn nữa, việc rước lễ đặc biệt này, tiếp theo liền với việc thờ lạy Thánh giá, có một ý nghĩa quan trọng. Rước lễ, không chỉ là “Rước Đức Kitô” mà thôi, nhưng đồng thời là tham dự vào hy lễ của Người nữa. Hơn lúc nào khác trong năm phụng vụ, bí tích Thánh Thể thật là bí tích sự Thương khó. Và rước lễ là tham dự  vào sự Thương khó của Chúa. Cách đặc biệt hơn : “Vì vậy mỗi lần anh em ăn Bánh và uống Chén này, tức là anh em loan báo sự chết của Chúa, cho đến lúc Người đến” (1 Cr 11,26).

Cử hành phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh kết thúc và sẽ có một khoảng trống phụng vụ, kéo dài từ chiều nay sang qua trọn ngày thứ bảy, cho đến canh thức Phục sinh.

Khoảng trống này gợi lên việc Chúa “xuống ngục Tổ tông” (Kinh Tin Kính của các tông đồ). Trong Kinh nguyện Thánh Thể I, chủ tế đọc: “Vì thế, lạy Chúa, chúng con … kính nhớ cuộc khổ hình hồng phúc, sự sống lại từ CÕI CHẾT và lên trời vinh hiển của Đức Kitô …”. Cõi chết (La ngữ : AB INFERIS) tức là ngục Tổ tông. Việc Chúa Giêsu xuống tận ÂM PHỦ, vương quốc của sự chết, đánh dấu cuộc chiến thắng của Người trên sự chết và trên các quyền lực sự dữ đã thống trị, ngay từ những thuở đầu, trên nhân loại. Các kitô hữu đầu tiên đã tự hỏi: Tại sao Đấng Cứu Thế đến quá muộn trong chiều dài lịch sử, và làm thế nào Người có thể cứu chuộc những người đã sống trước Người ? Vì thế, việc Chúa xuống ngục Tổ tông nói lên chiều kích phổ quát của ơn Cứu Độ : mọi thế hệ loài người đều được cứu chuộc nhờ sự chết của Người.

Ý NGHĨA NGÀY THỨ BẢY TUẦN THÁNH

Trong ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo hội dừng bước trước mộ của Chúa, suy niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Người, nên bàn thờ không trải khăn, và không cử hành Thánh lễ cho đến sau Vọng trọng thể hay sau đêm Phục sinh mới tận hưởng dồi dào niềm hân hoan Phục sinh trong năm mươi ngày.

Trong năm phụng vụ, hôm nay là ngày trầm lặng, vắng vẻ, tang tóc nhất, vì hôm qua còn để Mình Thánh Chúa ở bàn thờ phụ, còn có nghi thức phụng vụ ban chiều, còn được rước lễ, hôm nay tuyệt nhiên không có gì cả. Vì thế nên gọi hôm nay là ngày đại tang của Giáo hội, ngày mà mọi người tín hữu than khóc trong thinh lặng, mọi người đều mong tin mừng Phục sinh của Chúa Giêsu.

CANH THỨC PHỤC SINH

Theo truyền thống rất cổ kính, đây là đêm đáng lưu ý của Thiên Chúa. Đêm Giavê canh thức để đem họ ra khỏi đất Ai cập; đó là đêm của Giavê (đêm) canh thức của toàn thể con cái Israel theo các thế hệ của họ (Xh 12,42). Vì thế các tín hữu, theo lời khuyên Phúc Âm: “Các ngươi hãy lo sao: áo xắn đai lưng và đèn chong sáng …” (Lc 12,35). Tay cầm đèn sáng, phải giống như những người đợi Chủ trở về, để khi Người tới, gặp họ đang canh thức và đưa họ vào bàn ăn.

Việc canh thức đêm nay được sắp xếp như sau:
– Sau nghi thức ngắn dưới ánh đèn (lucernarium, phần đầu buổi canh thức), Hội Thánh:
+ Suy ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho dân của Ngài thuở ban đầu, trong niềm tin tưởng vào lời và lời hứa của Ngài (phần II: Phụng vụ Lời Chúa)
+ Cho đến lúc gần ngày sống lại của Chúa, Hội Thánh đón nhận những phần tử mới được tái sinh trong phép Rửa (phần III),
+ Để cùng với họ, Hội Thánh được mời vào bàn ăn mà Chúa đã dọn sẵn cho dân Người, nhờ việc Người chết và sống lại (phần IV) [6].

CANH THỨC PHỤC SINH gồm 4 phần:

Phần I: Bắt đầu trọng thể
Canh thức:Lễ Nến Phục sinh

            1. Làm phép lửa mới và sửa soạn Nến.

            2. Kiệu Nến Phục sinh.

            3. Công bố Phục sinh.

Phần II : Phụng vụ LỜI CHÚA

            1. Bài đọc.

            2. Lời nguyện.

Phần III : Phụng vụ THÁNH TẨY

            1. Làm phép Nước.

                Bí tích Thánh tẩy

            2. Tuyên xưng lại lời hứa Thánh tẩy

Phần IV : Phụng vụ THÁNH THỂ

1. Ý nghĩa về CANH THỨC
Ngay từ những buổi đầu, Giáo Hội Chúa Kitô sửa soạn mừng lễ bằng những canh thức ban đêm trong cầu nguyện và suy ngắm Kinh Thánh. Giáo Hội làm như thế theo gương Chúa Giêsu đã thức nhiều đêm cầu nguyện với Chúa Cha trước khi làm công việc cứu chuộc, nhất là trước những quyết định quan trọng.

Chúa Cứu Thế đã đến với chúng ta và chúng ta đã biết Người, nhưng Người vẫn còn là Đấng chúng ta trông đợi (Pl 3,20; 1 Cr 1,7).

Giáo Hội trông đợi, như tân nương chờ đón tân lang. Chúng ta đang ở đêm cuối cùng, hướng tới buổi bình minh không có chiều tàn, đang ở bên cửa phòng tiệc cưới. Do đó, phải canh thức: thắt lưng, tay cầm đèn cháy sáng để được đưa vào dự  Tiệc hằng sống.

Đây không phải là sửa soạn cho một buổi lễ chóng qua đi, nhưng là biểu hiệu một tư thế và tâm tư chờ đợi, chiếm mọi sinh hoạt của Giáo Hội : đợi dự tiệc, đợi sum họp đoàn tụ gia đình. Chính với tâm trạng này mà các tín hữu đầu tiên đã tập họp và bảo nhau: “CHÚA GẦN ĐẾN !” (1 Cr 16,22: Maranatha: Lạy Chúa, xin hãy đến; Maran-atha: Chúa đến).

2. Cử hành Canh thức

1- Phần 1 : NẾN PHỤC SINH

Trong phần đầu, chúng ta lưu ý:

a.  Quang cảnh Nhà Thờ

Nhà thờ trống, các đèn đều tắt. Cử hành trong đêm tối. Bầu khí như thế giúp chúng ta cảm thấy cảnh loài người lưu đày trong chốn tối tăm u ám và mong sẽ được đưa về quê hương, dưới ánh sáng của Đức Kitô (Lc 1,78-79 ; 1 Pr 2,9).

b.  Làm phép Lửa mới

Trong Cựu Ước, tiên tri Daniel (7,9) đã thấy Ngai của ĐẤNG CAO NIÊN: Lửa hỏa hào và bánh xe của Ngưới: lửa cháy rực. Và Chúa Giêsu đã nói tới lửa Người đem vào thế gian và mong được cháy phừng lên.

c.  Sửa soạn Nến Phục sinh

Ở đây, cây nến được dùng không như một vật dụng phụ thuộc vào việc phụng tự. Nến Phục sinh tượng trưng chính Chúa Kitô. Những dấu ghi khắc trên sáp: hai chữ A và W, và năm Cứu độ cho chúng ta biết: Đấng Hằng Có đã đi vào thời gian, nhưng bao trùm mọi thời đại và đang hiện diện giữa chúng ta, ngay trong lễ Canh Thức đêm nay. Cây nến được nạm 5 hột hương, nhắc đến 5 vết thương của Chúa Kitô (“nhờ những vết thương của Người mà hết thảy chúng ta được chữa lành”, Isaia).

d.  Nến được thắp sáng lên

Hình ảnh Chúa Kitô sống lại, đang sống và là ánh sáng soi đường dẫn lối cho thế gian. Nến được kiệu long trọng vào nhà thờ: gợi cho chúng ta cuộc tiến vào Đất Hứa của con cái Israel sau cột mây sáng, trong cuộc VƯỢT QUA đầu tiên.

e.  Bắt đầu cuộc kiệu

 Nến được đưa lên cao với lời xướng: Ánh sáng Chúa Kitô. Và mọi người đồng thanh: Tạ ơn Chúa. Nến được đưa lên cao lần thứ hai ở cửa vào nhà thờ. Và từ Nến Phục sinh, các nến của cộng đoàn được thắp lên. Ý nghĩa rõ rệt: Đời sống đức tin của chúng ta phát sinh từ Chúa Kitô Phục sinh. Như thế, Nến, tượng trưng Chúa Kitô, cũng tượng trưng mỗi người tín hữu. (Hết mùa Phục sinh, Nến Phục sinh sẽ được đưa vào đặt ở “giếng Rửa Tội”, để mỗi khi cử hành bí tích Thánh tẩy, dưới ánh sáng của Nến Phục sinh, chủ lễ mồi một cây nến và trao cho người mới lãnh bí tích).

Khi tới trước bàn thờ, vị chủ lễ hoặc phó tế lại đưa Nến lên cao một lần nữa. Bấy giờ, các đèn trong nhà thờ được thắp sáng lên.

f.  Bài công bố Tin Mừng Phục sinh

MỪNG VUI LÊN, nói lên niềm vui ơn Cứu Độ. Điều này dạy cho chúng ta, nhất là cho các người dự tòng biết: Kitô giáo cốt yếu không phải là một đạo hiến cho tín hữu có bộ mặt đưa đám tang (lời chỉ trích của văn hào Đức, Nietzsche). Trái lại, người kitô hữu được mời gọi mừng lễ cùng với muôn loài muôn vật khắp hoàn vũ. Đời sống kitô hữu có hy sinh, có khắc khổ thật đó! Nhưng đó là những điều cần, như cắt xén … để cho hoa niềm vui được triển nở trọn vẹn, khỏi những vướng mắc trì trệ.

Bài ca đượm màu sắc Kinh Thánh: cùng trong một cái nhìn, mời gọi cộng đoàn nhìn về lễ Vượt Qua của dân Israel và Phục sinh của Đức Kitô. Bài ca cầu nguyện tạ ơn biến thành một hoan ca, đến mức dám gọi tội của Adong là tội diễm phúc, vì nhờ đó mà chúng ta mới có được Đấng Cứu Chuộc!

Chiều kích hoàn vũ biểu lộ niềm vui của một thế giới đã được tái sinh : con người được hòa hợp với bản thân và cùng chung một niềm hiệp thông với Đấng Tạo Thành. Vạn vật, theo Thánh Phaolô, cùng chia sẻ với loài người trong hy vọng, đau thương, được thấy ngày giải phóng huy hoàng. Hơn lúc nào hết, niềm hy vọng đó đang được củng cố và bảo đảm trong sự Phục sinh của Chúa Kitô hôm nay.

2- Phần 2: PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

a.  Đọc Cựu Ước

Cũng dưới ánh sáng của Nến Phục sinh, ánh sáng của Đức Kitô Phục sinh, chúng ta mới hiểu thấu Cựu Ước, là cả một sự sửa soạn lâu dài cho việc Đấng Cứu Thế đến.

Các bài đọc được chọn làm một môn huấn giáo cuối cùng cho các dự tòng, đồng thời qua các lời nguyện sau mỗi bài, phương hướng truyền giáo nói lên tính bao quát của hồng ân Cứu Độ.

– Bài đọc I

Trang đầu sách Cựu Ước mời gọi chúng ta nhìn bao quát toàn vũ trụ. Với câu điệp khúc: “Và Thiên Chúa thấy điều đó là tốt”, Giáo Hội muốn đặc biệt mời gọi các dự tòng có cái nhìn lạc quan về thế giới. Chúng ta biết : giới ngoại giáo Hi-La có cái nhìn rất bi quan về quan hệ hồn xác và vật chất nói chung. Hồn ở trong xác như bị đày trong ngục tù. Thế giới vật chất chỉ là cái bóng mờ ảo của thế giới vô hình …, gần như không có giá trị tích cực nào. Đối lại, Giáo Hội dám mạnh dạn khẳng định: mọi sự hiện có đều do Thiên Chúa dựng nên và đều tốt lành. Tuy loài người có sa ngã, nhưng đã được tạo dựng lại cách kỳ diệu hơn, nhờ ơn Phục sinh của Chúa Giêsu.

– Bài đọc II: Lễ tế Isaac

Theo lệnh Chúa, Abraham đã không do dự đem đứa con của lời hứa, đứa con một đi hiến tế. Thư Hipri chú giải: “Bởi tin, Abraham đã hiến dâng Isaac khi Thiên Chúa thử lòng, và ông tiến dâng đứa con một … bởi ông nghĩ rằng: Thiên Chúa quyền phép đủ để làm cho người chết sống lại, do đó ông đã được lại con ông, sự đã nên như triệu báo” (11,17-19). Triệu báo hay hình bóng nói đó ám chỉ sự sống lại của Đức Kitô và sự phát sinh của một dân tộc mới.

Lời nguyện nói lên mối liên lạc mật thiết giữa hy tế Núi Sọ, sự Phục sinh và phép Rửa Tội, đưa chúng ta dự vào mầu nhiệm Phục sinh.

– Bài đọc III: Cuộc Vượt Qua Biển Đỏ

Con cái Israel được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và được đưa về Đất Hứa, ngang qua Biển Đỏ. Biển liền mở ra trước họ và cột mây lửa bảo vệ họ phải tầm mắt quân vua Pharaon đuổi theo. Khi họ vượt qua xong, biển ập trở lại, vùi dập quân Ai cập. Hình ảnh phép Rửa Tội có kèm theo hình ảnh cuộc chiến thắng nhờ Thập giá. Nhờ các tiên tri, dân Israel được vững tin rằng: quá khứ sẽ bảo đảm cho tương lai : Thiên Chúa đã tỏ uy quyền mà giải thoát dân Ngài, ắt Ngài sẽ không bỏ rơi và sẽ còn cứu thoát họ mãi. Israel mới cũng được sự bảo đảm của Thiên Chúa nhờ ơn Phục sinh của Đức Kitô.

– Bài đọc IV

Trích từ sách “Niềm an ủi của Israel”, nói lên lòng trung thành, tình yêu vĩnh cửu và giao ước bình an trường tồn của Chúa. Niềm an ủi càng sâu đậm đối với Israel mới : tình yêu và giao ước hứa cho Israel cũ đã được thực hiện qua chính Con Một của Chúa, là Đức Kitô. Cảnh lưu đày Babilon tượng trưng cảnh lầm than mà tội lỗi đã gây cho chúng ta, đã chấm dứt nhờ ơn tái sinh và ơn dưỡng tử Chúa Kitô Phục sinh ban cho các tín hữu.

– Bài đọc V

Đây là một trong những lời sấm bao quát nhất của Cựu Ước. Giáo Hội nhận thấy ở đó: lời loan báotin mừng” cho mọi dân tộc, chớ không chỉ riêng cho con cái Israel, kèm theo lời hứa ban hồng ân Thánh tẩy và Thánh Thể: hồng ân hoàn toàn nhưng không… Những câu nói tới sứ mạng của Lời là một trong những bản văn tiên tri nêu lên tính ngôi vị rõ rệt nhất, khiến chúng ta liên tưởng đến Phúc Âm theo Thánh Gioan đoạn I.

– Bài đọc VI : Nguồn Khôn Ngoan thật

Mọi khôn ngoan thế gian đều qua đi. Chỉ có sự khôn ngoan của Thiên Chúa bền vững đời đời. Con đường khôn ngoan đi qua các lề luật mà Israel đã không tuân giữ. Vì thế tai họa và đọa đày đã xảy đến. Phải trở về con đường khôn ngoan. Cũng như trong bài trước, bài đọc này nhấn mạnh tới tính ngôi vị của sự Khôn Ngoan và đưa chúng ta tới gần Phúc Âm. Thiên Chúa đã trao ban cho loài người sự Khôn Ngoan của Ngài, đến độ chính Con Một đã đến và ở giữa chúng ta.

– Bài đọc VII

Lời sấm của tiên tri Ezekiel báo cho dân bị lưu đày biết : Thiên Chúa sẽ đưa họ trở về, tha thứ tội lỗi, ban cho họ một quả tim, một thần trí mới, sẽ lập lại giao ước mới để họ sẽ là dân của Chúa và Ngài sẽ là Thiên Chúa của họ. Lời sấm này được thực hiện nơi dân tộc mới, do ơn Thánh tẩy và Thánh Thần được ban cho các tín hữu, nhất là các tân tòng, trong đêm thánh Phục sinh này.

b. Đọc Tân Ước

– Bài thư Thánh Phaolô đúc kết toàn bộ môn huấn giáo và nêu lên mối liên kết chặt chẽ giữa hồng ân Rửa Tội với mầu nhiệm Chúa Kitô chết và sống lại. Cùng chết và sông lại với Chúa Kitô Phục sinh, người tín hữu từ đây phải sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.

Bài Phúc Âm kể lại việc Chúa sống lại từ cõi chết, là nền tảng đức tin của mọi tín hữu, là đối tượng của Tin Mừng Cứu Độ, lẽ sống của mọi người kitô hữu.

Giờ đây, người dự tòng sắp lãnh nhận ơn Thánh tẩy. Hội Thánh được thêm phần tử, kết quả thấy được của Hồng ân Cứu Độ.

 3- Phần 3: PHỤNG VỤ THÁNH TẨY

Trong phần đầu, nghi thức lễ Nến đã cho chúng ta thấy ý nghĩa về ánh sáng liên quan đến sự Phục sinh. Phụng vụ Thánh tẩy, nghi thức làm phép Nước biểu lộ mầu nhiệm Sự Sống bằng dấu tượng trưng quen thuộc đối với Kinh Thánh và Truyền Thống : đó là mạch nước. Thánh Gioan đã sử dụng dấu chỉ về sự sống cách đặc biệt : trong dấu chỉ đầu tiên Chúa đã làm ở bữa tiệc cưới tại thành Cana, trong buổi nói chuyện với ông Nicôđêmô về sự sống mới, và trong dịp trao đổi với phụ nữ xứ Samaria bên thềm giếng Giacóp. Chính Thánh Gioan đã cho thấy : ánh sáng và sự sống là hai đặc điểm bổ túc của Ngôi Lời: “Nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng của loài người” (1,4).

a.  Vì thế, bí tích Thánh tẩy được gọi là “Phép Rửa tái sinh” (Titô 3,5). Người dự tòng được chuẩn bị cho việc tái sinh, bằng việc nhận tên mới. Chúng ta biết : trong Kinh Thánh, đổi lấy tên mới biểu lộ một lối sống mới phù hợp với sứ mạng mới : Abram – Abraham, Sarai – Sara, Giacóp – Israel, … Nghi thức Rửa Tội thời xưa biểu lộ ý nghĩa cách rõ ràng : dự tòng được vú hay bõ đưa vào giếng nước, nước lên tới cổ. Dìm mình xuống nước, như thế có nghĩa là chết cho tội, được rửa sạch mọi vết nhơ, và khi ra khỏi nước trở thành con người mới.

Tân tòng được trao cho áo trắng. Theo sách Khải huyền: áo trắng là dấu chỉ ơn trường sinh (3,4-5 ; 7,9-13). Chủ lễ cũng trao cho dự tòng cây nến cháy. Qua lời nhắn nhủ, chúng ta thấy: bí tích Thánh tẩy mang một ý nghĩa cánh chung, vì được coi là việc chuẩn bị đi đón rước Chúa Kitô vinh quang.

Phụng vụ Thánh tẩy đạt tới cao điểm khi có cử hành bí tích Rửa Tội. Nếu không có thì nghi lễ mất đi phần nào tính dồi dào sung mãn, tương tự như Thánh Lễ không có người rước lễ. Xét về mặt mục vụ, cần sắp xếp cho các dự tòng được chuẩn bị kịp thời lãnh nhận ơn tái sinh. Lãnh bí tích Rửa Tội ngay trong đêm Vọng Phục sinh sẽ giúp cho tân tòng thấy rõ hơn ý nghĩa cụ thể về Mầu nhiệm Vượt Qua trong chính đời sống Kitô hữu của họ. Đồng thời cũng nói lên sức sống và đà phát triển của cộng đồng Dân Chúa ở xứ đạo, cộng đồng những người con cái của Chúa đã được tái sinh trong Chúa Kitô Phục sinh từ trong cõi chết [7].

b.  Tuyên xưng lại lời hứa Thánh tẩy

Có thể nói : Đêm Phục sinh là lúc thích hợp nhất để người kitô hữu coi đó là ngày sinh nhật của mình, dù đã được Rửa Tội vào những ngày giờ nào khác trong năm. Bởi lẽ chính trong đêm Phục sinh, tội lỗi và con người cũ của chúng ta đã bị hủy diệt ; và với sự sống mới lãnh nhận từ Đức Kitô Phục sinh, chúng ta được trở thành con người mới. Cho nên, bất cứ vào ngày giờ nào trong năm, chính từ Đức Kitô Phục sinh mà ơn tái sinh được thông ban cho loài người.

Vì thế, trong chính đêm nay, Giáo Hội mời gọi mỗi người tín hữu đứng lên, tay cầm nến sáng, mồi cháy từ nến Phục sinh. Mọi người như một, long trọng tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô và quyết tâm cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới, sống đời sống mới trong Chúa Phục sinh.

 4- Phần 4: PHỤNG VỤ THÁNH THỂ

Giờ đây, tất cả tín hữu, toàn thể Giáo Hội, cùng trong niềm hân hoan cảm tạ, tham dự  tiệc Thánh Thể, một bảo chứng tiên báo Bàn Tiệc trên trời. Tiếng ALLELUIA (Hãy ngợi khen Chúa), tự cõi lòng mọi người sẽ vang lên suốt Mùa Phục sinh.

Và từ  Mùa Phục sinh này đến Mùa Phục sinh tới, buổi lễ Canh thức Phục sinh hằng năm nhắc cho chúng ta nhớ: Giáo Hội, trải qua đêm dài trong suốt con đường lữ hành trần thế, sẽ luôn luôn ở trong tình trạng Canh thức chờ đón Chúa. Dù đêm có dài, nhưng với Chúa Phục sinh là Ánh Sáng soi đường, Giáo Hội vẫn quyết tâm khẩn nguyện: MARANATHA: LẠY CHÚA, XIN HÃY ĐẾN ! (Kh 22,20).

LỜI KẾT: MẦU NHIỆM VƯỢT QUA – MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG

Đặc biệt trong Tuần Thánh, chúng ta được hiệp thông vào Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Đối với người kitô hữu, sự hiệp thông đã được thiết lập qua bí tích Thánh tẩy.

Theo nghi thức Rửa Tội thời Giáo Hội sơ khai, người dự tòng được dìm mình xuống nước. Dìm mình dưới nước, đó là chết và được mai táng cùng với Đức Kitô, chết cho con người cũ, cho tính mê tật xấu. Bước lên khỏi nước, tức là sống lại cùng với Đức Kitô. Trong thư gửi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô quả quyết: “… Chúng ta đã được mai táng làm một với Người, bởi được Thánh tẩy trong sự chết của Người, ngõ hầu như Đức Kitô được sống lại từ  cõi chết thế nào thì cả chúng ta nữa cũng được sống một đời sống mới” (6,4).

Tuy nhiên, đời sống mới vẫn tồn tại trong một bản tính yếu đuối, mang vết tội lỗi, nên luôn cần được của ăn bổ dưỡng và linh dược phòng ngừa chữa trị. Chính nhờ bí tích Thánh Thể mà mối hiệp thông với Đức Kitô được củng cố cho người tín hữu.

Chính Thánh Phaolô đã gợi lại hồng ân hiệp thông lãnh nhận thuở ban đầu, khi lãnh bí tích Thánh tẩy: “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài đã kêu gọi anh em đến hiệp thông (koinonían) với Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cr 1,9).

Và cũng chính Thánh Tông đồ nói tiếp: “… Khi ta nâng Chén tạ ơn mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là hiệp thông (koinonían) với Máu Đức Kitô ư ?” “Và khi ta bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là hiệp thông (koinonían) vào Thân Thể Người sao ?” (1 Cr 10,16).

Hiệp thông với Đức Kitô, chúng ta cũng được hiệp thông với nhau, vì khi chia sẻ cùng một Bánh, tuy nhiều người, chúng ta cùng là một Thân Thể (câu 17). Cho nên, bàn tiệc Thánh Thể thực hiện sự hiệp thông giữa Đức Kitô và các tín hữu, cũng nhằm thực hiện sự hiệp thông mở rộng tới các tín hữu với nhau, và với tất cả mọi người gần xa, mở rộng đến tầm cỡ thế giới.

“…Việc tham dự bàn tiệc của Chúa đặt lương tâm con người trước những trách nhiệm đối với kẻ gần người xa, với thế giới bao quanh. Việc tham dự  bẻ Bánh  thúc đẩy mỗi người đóng góp phần của mình để xây dựng một thế giới mới[8].

Tắt một lời, người kitô hữu không thể cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, đặc biệt qua phụng vụ Thánh Thể, mà không có sự hiệp thông vào mầu nhiệm Cứu Độ của Đức Kitô. Việc cử hành mầu nhiệm Vượt Qua đòi hỏi chúng ta không được dừng lại trong các buổi nghi thức phụng vụ, nhưng phải gắn liền với đời sống hằng ngày, trong các sinh hoạt, nhằm làm chứng cho Tin Mừng giữa lòng thế giới.


[1] – Đây là ý kiến của một học giả Dothái Jules Isaac trong tác phẩm “Đức Giêsu và Israel”.

[2] Kinh Thánh Giêrusalem, chú cước.

[3] Theo Mt 20,22.26.

[4]-xem O. Culmann, Les Sacrements dans l’Évangile Johannique, ch. XII và L. Bouyer, Le Quatrième Évangile, p. 191.

[5] – xem Matthêu 10,24-28.

[6] – Trích chỉ dẫn chữ đỏ số 1 và 2 NGHI THỨC TUẦN THÁNH

[7] – Thư Thánh Phaolô trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh.

[8] – Sứ điệp Chủ Nhật của Đức Gioan Phaolô II, ngày 19-7-1981.

Comments are closed.

phone-icon