Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô!
Ngày Thế Giới Truyền Giáo là một biến cố quan trọng trong đời sống của Giáo hội. Có thể nói tầm quan trọng của nó đang phát triển không ngừng.
Có lẽ chưa bao giờ như ngày nay, nhiệm vụ mà Đấng sáng lập trao cho Giáo Hội “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19; x. Mc 16, 15), đã diễn ra rộng rãi và khẩn cấp như vậy. Hơn bao giờ hết, Giáo Hội phải thực hiện nơi mình lời của vị tông đồ : “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cor 9,16).
1. Cho một Giáo Hội truyền giáo
Ngày Thế Giới Truyền Giáo là một cơ hội tuyệt vời để nắm bắt tổng quát sự nhận thức về bổn phận truyền giáo và để nhắc nhở tất cả các thành phần trong Giáo Hội, không phân biệt chức vụ hay địa vị, rằng họ có liên quan đến bổn phận này. Tất cả mọi người hãy suy niệm các bản văn hùng hồn của Công Đồng Vaticano II, nơi xác định rõ toàn thể Giáo Hội là truyền giáo, rằng công việc loan báo Tin Mừng là bổn phận cơ bản của Dân Thiên Chúa (Sắc lệnh về “Truyền giáo”, số 35) và mỗi môn đệ của Chúa Kitô là một phần trong sứ vụ truyền bá đức tin (Hiến chế về “Giáo Hội”, số 17). Cần không ngừng lấy lại sự giảng dạy của Công Đồng, được diễn tả trong rất nhiều tài liệu, được nghiên cứu từ Thượng Hội Đồng của các Giám mục năm 1974 và được tổng hợp từ Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trong tông huấn “Loan Báo Tin Mừng” vào ngày 8 tháng 12 năm 1975. Nếu như một lần nữa, tôi xin anh chị em trở lại với những tài liệu này, chúng thường được nhắc đến, bởi vì tôi xác tín về tầm quan trọng của chúng, phải luôn được đào sâu ngày càng nhiều hơn nữa.
Ngày Thế Giới Truyền Giáo là một cơ hội để mỗi người thực hiện một sự thẩm vấn lương tâm về vấn đề này và chỉ ra cho Dân Chúa thấy giáo huấn của Giáo Hội: thật vậy, tương lai của việc loan báo Tin Mừng trong thế giới đang bị đe dọa. Nếu tất cả các Kitô hữu được thuyết phục về bổn phận truyền giáo của họ, thì những khó khăn sẽ nhẹ đi rất nhiều.
Theo nghĩa này, đó là nguồn hy vọng lớn để nhìn thấy sự sinh sôi nảy nở trong thế giới các cộng đoàn Kitô nhỏ, năng động và cởi mở, họ đã hiểu trách nhiệm riêng của mình trong việc công bố Tin Mừng, hứa hẹn một sự thăng tiến cho thế giới tốt đẹp hơn.
Một hiện tượng khác làm cho chúng ta vui mừng và cảm tạ Chúa, đó chính là sự ra đời của một phong trào truyền giáo trong các Giáo Hội trẻ, từ những người rao giảng Tin Mừng trở thành những người được rao giảng Tin Mừng. Trong nhiều quốc gia truyền giáo, số các nhà truyền giáo ra đi để mang sứ điệp Tin Mừng cho những người ngoài Kitô giáo, có thể là những miền khác nhau trong đất nước của họ, có thể là các quốc gia khác nhau, có thể là các lục địa khác nhau, đang tăng lên từng ngày. Ở mỗi châu lục, hiện nay các nhà truyền giáo xuất phát từ mỗi quốc gia trên thế giới.
Các Giáo Hội trẻ, một khi được trở nên các nhà truyền giáo, phải chứng tỏ sự trưởng thành của mình trong đức tin. Họ hiểu rằng một Giáo Hội địa phương mà không truyền giáo, thì không hoàn toàn là Công giáo. Thật vậy, nếu toàn thể Giáo Hội là truyền giáo, thì họ phải nên giống các Giáo Hội địa phương: “Các Giáo Hội này được thành lập theo hình ảnh Giáo Hội phổ quát: chính nhờ và trong các Giáo Hội ấy mà có một Giáo Hội công giáo, duy nhất” (Sắc lệnh “Ánh sáng muôn dân”, số 23). Một Giáo Hội đóng kín, không cởi mở với việc truyền giáo, thì chưa phải là một Giáo Hội hoàn thiện hoặc một Giáo Hội bệnh hoạn. Chẳng hạn việc thức tỉnh truyền giáo trong các Giáo Hội trẻ có thể nhắc nhở sự thật này cho các Giáo Hội cổ truyền, vì các Giáo hội ấy, sau khi đã phát triển với một nỗ lực đáng ngưỡng mộ, đôi khi họ dường như chán nản và nghi ngờ về bổn phận truyền giáo của họ.
2. Phục vụ truyền giáo của Giáo Hoàng
Bổn phận truyền giáo này nhắc nhở Đức Giáo Hoàng và tất cả anh chị em trong Chúa Kitô. Với tư cách là Mục tử tối cao của một Giáo Hội hoàn toàn truyền giáo, ngài phải là nhà truyền giáo đầu tiên, cố gắng theo gương Chúa Kitô, “nhà truyền giáo đầu tiên tuyệt vời nhất” (Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, số 7), và đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, “tác nhân chính của việc loan báo Tin Mừng” (số 75).
Ngay từ đầu triều đại Giáo Hoàng của tôi, tôi đã suy nghĩ những lời của Công Đồng Vaticano II, nói rằng người kế vị thánh Phêrô “là người được đặc biệt ủy thác nhiệm vụ cao cả truyền bá danh hiệu Kitô hữu” (Hiến chế về “Giáo Hội”, số 23; x. Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, số 67). Theo gương vị tiền nhiệm Phaolô VI của tôi, tôi bắt đầu chuyến đi thăm viếng một số các quốc gia, trong đó có một số quốc gia, Chúa Kitô vừa được nhận biết hoặc việc loan truyền Tin Mừng vẫn còn chưa hoàn tất. Các cuộc hành trình trong các vùng Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi và Châu Á đã có một “mục đích rất tôn giáo và truyền giáo”, như tôi đã nói trước khi tôi rời khỏi Châu Phi. Tôi muốn chính tôi là người công bố Tin Mừng, bằng cách làm cho tôi trở thành một giáo lý viên lưu động, và khuyến khích tất cả những người đang phục vụ Tin Mừng, có thể họ xuất thân từ các quốc gia của mình, hoặc đến từ các quốc gia khác để phục vụ cho Giáo Hội địa phương nào đó. Đối với tất cả những người ấy, tôi muốn tỏ lòng cảm phục và diễn tả tâm tình biết ơn của tôi nhân danh Giáo Hội hoàn vũ.
Những chuyến đi sứ vụ đã cho phép tôi chiêm ngưỡng đức tin, sự giàu có tinh thần và sức sống của các Giáo Hội trẻ, để chia sẻ niềm vui, nhu cầu và những đau khổ của họ, để cổ võ những cố gắng của họ nhằm bén rễ đức tin kitô giáo trong văn hoá riêng của họ. Việc tiếp xúc với đa số những người vẫn còn chưa biết Chúa Kitô đã cho tôi sự xác tín hơn trước đây về sự khẩn cấp của việc loan báo Tin Mừng. Thế giới có nhu cầu rất nhiều về Chúa Kitô! Và những người đi tiên phong trong sứ vụ loan báo Tin Mừng này biết điều đó tốt hơn bất kỳ người nào khác. Sự cộng tác của tất cả các Giáo Hội trong việc loan báo Tin Mừng của thế giới không được để cho yếu kém đi.
3. Hoạt động loan báo Tin Mừng của gia đình
Thực hiện lời kêu gọi cộng tác của tất cả mọi người cho công cuộc truyền giáo, trước hết tôi muốn đề cập đến các gia đình kitô giáo. Thời đại của chúng ta cần đặt lại tầm quan trọng của gia đình, sức sống và thế quân bình của gia đình. Điều này đúng trên bình diện con người: gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, là nền tảng về phẩm chất sâu xa của nó. Và điều này đúng ngay cả đối với Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô, là Giáo Hội; đó chính là lý do mà Công Đồng đặt cho gia đình một danh hiệu xinh đẹp là “Giáo Hội tại gia” (Hiến chế “Giáo Hội”, số 11). Việc loan báo Tin mừng của gia đình, do đó, là mục tiêu chính của hoạt động mục vụ, và điều này lần lượt không đạt được đầy đủ mục đích riêng của nó, nếu các gia đình Kitô giáo không trở nên chính những người loan báo Tin Mừng và các nhà truyền giáo: đào sâu ý thức tinh thần cá nhân đảm bảo rằng mỗi người, cha mẹ và con cái, có vai trò riêng và tầm quan trọng riêng của mình đối với đời sống kitô hữu của tất cả các thành viên khác trong gia đình.
Không còn nghi ngờ gì nữa, về khía cạnh tôn giáo cũng như khía cạnh con người, hoạt động của gia đình tuỳ thuộc vào cha mẹ, với ý thức trách nhiệm riêng của mình, từ giá trị Kitô giáo. Vì vậy, tôi muốn đặc biệt hướng về các gia đình. Bằng lời nói và chứng tá bằng đời sống của họ như tông huấn “Giáo lý trong thời đại chúng ta” dạy: các bậc cha mẹ là những giáo lý viên đầu tiên của con cái họ (xem số 68). Trong hoạt động này, cầu nguyện phải là mối quan tâm hàng đầu và tôi xin phép phải nhấn mạnh về điểm này. Thật vậy, việc cầu nguyện, mặc dù nhận thấy có sự biến đổi tốt đẹp đó đây, nhưng vẫn còn khó khăn đối với nhiều kitô hữu ít cầu nguyện. Họ đặt ra vấn nạn: lời cầu nguyện để phục vụ cho cái gì? Có thích hợp với ý nghĩa hiện đại của chúng ta về hiệu quả hay không? Chẳng lẽ không có gì hẹp hòi trong việc trả lời với lời cầu nguyện cho những nhu cầu vật chất và tâm linh của thế giới?
Đứng trước khó khăn này, chúng tôi không ngừng trình bày việc cầu nguyện kitô hữu không thể tách rời niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, bởi đức tin của chúng ta trong tình yêu của Ngài và trong quyền năng cứu độ của Ngài, là cho công trình trong thế giới. Vì vậy, lời cầu nguyện có hiệu lực trước hết đối với chúng ta: lạy Chúa, “xin tăng thêm đức tin cho chúng con!” (Lc 17, 6). Đức tin có mục đích hoán cải chúng ta, nghĩa là, như thánh Cipriano đã giải thích, ý muốn mở ra cho hoạt động biến đổi của Ân Sủng. “Ngài nói: xin cho danh cha cả sáng…, chúng ta xin một cách kiên trì bởi vì chúng ta được thánh hóa qua bí tích rửa tội, để kiên trì trong những điều chúng ta đã bắt đầu được… Nước Cha trị đến: chúng ta xin Nước Thiên Chúa thực hiện giữa chúng ta theo nghĩa chúng ta khẩn cầu danh của Ngài được cả sáng trong chúng ta… rồi chúng ta thêm: ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, bởi vì chúng ta có thể làm điều mà Thiên Chúa muốn… ý muốn của Thiên Chúa là điều mà Chúa Kitô đã thực hiện và đã dạy (thánh Cipriano, “De oratione domenica”). Sự thật của lời cầu nguyện liên hệ đến sự thật của đời sống; cầu nguyện là hai mặt nguyên nhân và kết quả của một lối sống đặt dưới ánh sáng của Tin Mừng. Theo nghĩa này, lời cầu nguyện của cha mẹ, cũng như lời cầu nguyện của cộng đoàn kitô hữu, sẽ là sự khởi đầu của các con trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và lắng nghe lời mời gọi của Ngài. Vậy chứng nhân của một đời sống sẽ nhận ra trong tất cả giá trị của nó. Nó giả thiết các con cái học được từ gia đình, như kết quả bình thường của lời cầu nguyện, để nhìn ra thế giới bằng cặp mắt Tin Mừng trong tư cách là kitô hữu! Điều này cũng giả thiết rằng con cái trong gia đình, học được một cách cụ thể rằng trong đời sống, có rất nhiều điều cần quan tâm sâu xa hơn tiền của, kỳ nghỉ hay giải trí! Vậy thì việc giáo dục truyền đạt cho con cái khả năng mở ra cho sự năng động truyền giáo như cho một chiều kích bên trong của đời sống kitô hữu, bởi vì cha mẹ và các nhà giáo dục biết làm cho mình thấm nhuần tinh thần truyền giáo, vốn không thể tách rời ý nghĩa của Giáo Hội. Với gương sống của họ, thậm chí nhiều hơn cả lời nói, chỉ dậy cho con cái của họ có lòng quảng đại hướng về những người yếu đuối hơn, để chia sẻ đức tin và vật chất của họ với các trẻ em và những người trẻ vẫn chưa được biết Chúa Kitô hoặc những nạn nhân đầu tiên của sự nghèo đói và thiếu hiểu biết. Vậy thì, các cha mẹ kitô hữu trở thành những người có khả năng quan sát sự trổ hoa của ơn gọi linh mục hay tu sĩ truyền giáo như một trong những bằng chứng đẹp nhất về tính xác thực của việc giáo dục kitô hữu được truyền đạt từ họ và họ cầu nguyện: lạy Chúa xin hãy gọi một trong những đứa con của con. Như thế, sự quan tâm truyền giáo được biểu lộ như một yếu tố thiết yếu của sự thánh thiện của gia đình kitô hữu. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I nhấn mạnh: “Bằng lời cầu nguyện của gia đình, Giáo Hội tại gia trở thành một thực tại hiệu quả và mang đến một sự biến đổi thế giới. Và mọi nỗ lực của cha mẹ tỏa sáng tình yêu của Thiên Chúa nơi con cái họ, nâng đỡ họ bằng gương sáng đức tin, thiết lập một hoạt động tông đồ khá quan trọng giữa thế kỷ XX” (“Diễn văn gửi các Giám mục Châu Mỹ trong chuyến ad limina”, ngày 21 tháng 9 năm 1978, ASS 70, [1978], 767).
Trong trường hợp này tôi muốn gửi đến các bậc cha mẹ và tất cả những nhà giáo dục công giáo một công việc quan trọng mà nó được thiết lập hơn một thế kỷ (1843), để giúp họ trong việc giáo dục truyền giáo, đặc biệt dành cho con cái, trong đó cung cấp cho họ các phương tiện thích đáng. Tôi muốn nhắc đến Hội Thánh Nhi, nhằm mục đích khuyến khích quảng bá tinh thần truyền giáo ở nơi các trẻ em.
4. Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo nhằm phục vụ sứ vụ phổ quát
Việc tổ chức hoạt động truyền giáo trong tháng 10, tháng của các sứ vụ, trong đó Ngày Thế Giới Truyền Giáo điểm nổi bật, được trao cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, bởi vì sự thiết lập ngày này là do sáng kiến của họ. Trong những năm gần đây, các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo đã được hình thành trong tất cả các Giáo Hội trẻ. Ở khắp nơi các Hội có mục đích “khơi lên trong những người công giáo, ngay từ tuổi thơ, một tinh thần thực sự công giáo và phổ quát” (Sắc lệnh “Truyền giáo”, số 38). Như đã nói trong Quy Chế mà tôi đã châu phê vào năm ngoái (ngày 16 tháng 6 năm 1980), điều này tạo nên mục đích đầu tiên và chủ yếu của các Hội. Các Hội cũng được dành riêng để cổ võ sự cộng tác truyền giáo của mỗi Giáo Hội địa phương, mỗi Giám mục, mỗi giáo xứ, mỗi cộng đoàn, từng gia đình và từng người. Vì đây là bổn phận dành cho tất cả mọi người, nên nó có thể đòi hỏi nơi mỗi người một sự nâng đỡ bằng một hành động ưu tiên cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo.
Việc đẩy mạnh truyền giáo diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. “Vì loan báo Tin Mừng trước hết là hành động của Chúa Thánh Thần, nên cần dành riêng chỗ nhất cho việc cầu nguyện và hy sinh”, như tôi vừa nhấn mạnh cũng như Quy chế của các Hội có lý khi nhắc nhở. Hơn nữa, cần có một nỗ lực chung và mạnh mẽ để làm nảy sinh và gia tăng các ơn gọi truyền giáo. Nếu thế giới có nhu cầu lớn về Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài hơn bao giờ hết, thì số những người rao giảng Tin Mừng cũng phải được gia tăng cho cân xứng.
Sự cộng tác truyền giáo cũng có mục đích hỗ trợ vật chất cho công việc loan báo Tin Mừng. Sao lãng hay chỉ trích khía cạnh này có thể là một cái cớ nhỏ để tuyên bố miễn trừ sự quảng đại. Những nhu cầu tài chính của các Giáo Hội trẻ hầu hết thuộc các quốc gia của thế giới thứ ba, vẫn còn rất lớn, mặc dù họ đã nỗ lực hết sức để đạt tới một nền tài chính tự trị. Đối với họ, cần một sự trợ giúp có thể là cho các chủng viện mà họ bảo đảm một sự huấn luyện và duy trì các linh mục tương lai; có thể là nuôi nấng các cộng tác viên truyền giáo hiện tại hoặc cho phép xây dựng các nhà thờ, các trường học, các trạm xá, các trung tâm cần thiết cho một hoạt động xã hội. Để đối phó với những nhu cầu cần thiết hằng ngày và thiết yếu, các Giáo Hội trẻ cần phải cậy dựa vào sự trợ giúp thường xuyên và an toàn. Đó chính là lý do mà tôi kêu gọi tất cả mọi người, để họ đóng góp cho quỹ trung ương của các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo mà mục đích thực sự của họ là để bảo đảm sự cộng tác thường xuyên này của họ. Chẳng hạn các kitô hữu trong các quốc gia có hoàn cảnh khó khăn, mặc dù nghèo, họ trút món tiền dâng cúng nhỏ bé của mình, cần phải nghĩ tới những người trong các nước giàu, họ thường cho đi một phần nhỏ trong cái dư thừa của họ.
Lý do vui mừng khi nhận thấy gần đây rất nhiều Kitô hữu có sự quan tâm ngày càng tăng đối với các nhu cầu của các quốc gia và của các Giáo Hội thuộc thế giới thứ ba, cũng như sự gia tăng bằng hình thức đáng kể và sáng kiến đặc biệt để hỗ trợ cho người dân hoặc cho các dự án trong các vùng này. Đây là dấu chỉ của một ý thức truyền giáo và ý thức công lý đã trưởng thành. Tuy nhiên, điều đó thích hợp để nhường vị trí ưu tiên cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, để họ nâng đỡ việc công bố trực tiếp Tin Mừng, đó là quyền cơ bản và bổn phận của Giáo Hội. Chính trong lời loan báo này mà nó là nền tảng cho sự phát triển đích thực và giải phóng con người thực sự.
Ngày nay, nhờ các chương trình trợ giúp phổ quát của họ, các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo phụ trách các nhu cầu của tất cả các Giáo Hội trẻ mà không loại trừ bất kỳ Giáo Hội nào. Sự phổ quát này là đặc tính riêng của họ. Đây chính là lý do tại sao những người làm tông đồ quan tâm đến đất nước của họ hoặc cho các dự án được thông báo một cách cá nhân, không trở nên độc quyền, nhưng phối hợp với nhau để nỗ lực loan báo Tin Mừng nhằm phục vụ tất cả các Giáo Hội trẻ. Cho đến nay, các mục tử của các Giáo Hội này mang nặng vật chất về sáng kiến truyền giáo. Vì vậy, trong sự cộng tác truyền giáo, cần suy nghĩ điều gì trước tiên cho các Giáo Hội trẻ, và đặc thù cho tất cả các Giáo Hội này. Do đó, cách thức cộng tác này có thể đưa đến hệ quả là làm cho chúng ta cảm thấy ít dấn thân một cách cá nhân và nhu cầu trao ban một cách vị tha hơn. Nhưng hình thức trao ban này có thể biểu lộ Tin Mừng hơn và hiệu quả hơn.
Chỉ quỹ liên đới trung tâm mới có thể tránh nguy hiểm quên đi một vài Giáo Hội, nhất là những Giáo Hội nghèo hơn, hoặc chắc chắn về nhu cầu cần thiết của họ. Chỉ nhờ một chương trình trợ giúp thích đáng cho những nhu cầu khác nhau, người ta có thể tránh được cạm bẫy của chủ nghĩa địa phương và của những người trợ giúp. Một cách chính xác, là Hội Đồng tối cao của các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo tìm kiếm bao nhiêu, bao gồm các vị đại diện của tất cả các Giáo Hội và quy định các lời khuyên và các thông tin của Thánh Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Các Dân Tộc.
Bởi vậy, tháng 10 nên có tháng truyền giáo phổ quát ở khắp nơi, tháng của sự trợ giúp truyền giáo lẫn nhau dưới sự bảo trợ của các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo. Vì lý do này, các Giám mục được mời gọi, theo Quy chế mới của Bộ, “cầu nguyện cho những người có trách nhiệm của các Hội Công giáo và các tín hữu từ chối lạc quyên, có căn tính đặc biệt, trong thời điểm này”. Trong quá khứ, đã có rất nhiều Giám mục, theo gương Tòa Thánh, đã trực tiếp đưa ra ý kiến này.
Cuối cùng, chắc chắn anh chị em ghi khắc trong tim để nhớ điều này, sự cộng tác truyền giáo không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế ngày nay, trong đó tất cả các quốc gia trên thế giới đều gánh chịu. Ước chi cuộc khủng hoảng này, đối với các tín hữu của các quốc gia giàu không trở thành cái cớ làm giảm đi lòng quảng đại của họ! Ước gì họ không quên rằng các quốc gia và các Giáo Hội của thế giới thứ ba xúc động hơn về cuộc khủng hoảng này của họ!
Để kết luận, tôi muốn nhắc cho anh chị em rằng việc cử hành Đại hội Thánh Thể quốc tế tại Lộ Đức trong tháng bảy, phải khuyến khích sự nhiệt tình truyền giáo của Giáo Hội. Thánh Thể, là bí tích làm nên Giáo Hội và là “nguồn mạch và đỉnh cao của tất cả đời sống Kitô hữu” (LG 11), là bí tích có ý nghĩa và thực hiện sự duy nhất giữa tất cả các thành phần của Giáo hội. Thánh Thể liên kết người này với người kia, thúc đẩy để chia sẻ niềm tin của họ, làm phong phú tinh thần của họ, những đau khổ và bánh ăn hằng ngày của họ. Vì vậy, những người tham dự Thánh Thể cũng được mời gọi tham gia vào sứ vụ của Đức Kitô, để mang sứ điệp của Ngài cho tất cả mọi người: vì thế, phụng vụ Thánh Thể phải là trung tâm của việc cử hành của Ngày Thế Giới Truyền Giáo cho các xứ truyền giáo.
Nguyện xin Thiên Chúa, đấng đã ban cho Giáo Hội mệnh lệnh làm cho tất cả các quốc gia trở thành môn đệ của Ngài, có thể biểu lộ qua sức mạnh của chúng ta quyền năng mà ngài đã ban cho trên trời và dưới đất (x. Mt 28, 18-19)! Xin Đức Trinh nữ Maria, bổn mạng của các nhà truyền giáo giúp chúng ta đáp trả giáo huấn của Đức Kitô sống lại! Với anh em, Chư Huynh đáng kính trong hàng ngũ Giám mục đoàn, cho tất cả các nhà truyền giáo, những người cống hiến bản thân không mệt mỏi vì mùa gặt, cho các Cộng đoàn Giáo phận, đặc biệt cho nhiều người nhận biết lời mời gọi này và đáp trả với lòng quảng đại, được thôi thúc đổi mới bên trong, tôi ưu ái ban phép lành tông đồ.
Từ Vatican, ngày 7 tháng 6 năm 1981, năm thứ 3 triều đại Giáo Hoàng.
Chuyển dịch: Nt. Maria Phạm Thị Hoa, OP