Sr. Têrêsa Nguyễn Thị Phượng
Soạn theo cuốn “Thiếu Nhi sống Thánh Thể” của John Martin
1. Lời Chúa: Ga 4,5–42
5 Vậy, Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. 6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”. 11 Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy”. 13 Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”.
15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. 16 Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”. 17 Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Đức Giê-su bảo: “Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”. 19 Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. 21 Đức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. 23 Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. 25 Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. 26 Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.
27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy?”. Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy?”. 28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29 “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?”. 30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa”. 32 Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. 33 Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?”. 34 Đức Giê-su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! 36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ”.
39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
2. Suy niệm:
Các em thiếu nhi yêu quý,
Tin Mừng Thánh Gioan, mà các em vừa nghe thuật lại biến cố Chúa Giêsu tiếp chuyện với người phụ nữ Samaria. Chúa Giêsu đi đường xa, mệt lả, nên Chúa Giêsu dừng lại bên bờ giếng Giacóp. Các môn đệ vào thành để mua thức ăn. Lúc ấy, có một người phụ nữ Samaria ra lấy nước, và Chúa ngỏ lời xin một ít nước cho đỡ khát, vì lúc ấy vào khoảng 12 giờ trưa. Trời nắng nóng.
Các em biết không ở Do Thái thời Chúa Giêsu, có một điều tối kỵ đó là người nam không tiếp chuyện với người nữ cách công khai nơi công cộng, và càng không tiếp chuyện, giao tiếp qua lại với người dân Samaria, chứ đừng nói tới phụ nữ Samaria. Bởi người Do Thái coi người Samaria là người lai căng, nghịch đạo, xa rời truyền thống tốt đẹp của cha ông và không tôn thờ Giavê Thiên Chúa cho phải lẽ. Do đó tiếp xúc với họ là có tội. Vậy mà trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã vượt ra khỏi cái giới hạn coi khinh người khác này, để không phải chỉ tiếp chuyện mà còn xin nuớc uống từ một người phụ nữ Samaria. Đó là lý do khiến chính người phụ nữ ngạc nhiên. Các môn đệ khi đi chợ về cũng vậy, họ rất ngạc nhiên vì Chúa Giêsu, Thầy mình mà lại tiếp chuyện với một người phụ nữ Samaria.
Nhưng lạ làm sao, từ việc xin nước uống nơi chị Samaria, Chúa Giêsu lại giới thiệu với chị về Nước Hằng Sống của Chúa, để rồi chính chị lại trở thành người giới thiệu cho dân làng của chị ,về Nước Hằng Sống mà chị đã và đang được Chúa Giêsu khơi lên niềm khao khát. Nước Hằng Sống ấy không khác gì hơn chính là Chúa Giêsu mà chị và cả dân làng của chị đã được nghe Chúa giảng, được tiếp chuyện với Chúa, được Chúa lưu lại hai ngày. Họ đã tuyên xưng: “Không còn phải vì câu chuyện của chị, mà chúng tôi tin, mà vì chính chúng tôi cũng đã nghe và chúng tôi biết thật: Ngài là Đấng cứu thế”.
Các em yêu quý, cách hành xử của Chúa Giêsu hôm nay, thật đáng khâm phục biết bao. Chúa Giêsu đã không câu nệ vào lề luật, vào phong tục vốn là sự tỳ hiềm, ganh ghét và loại trừ nhau, để thực thi tình yêu thương và lòng quảng đại của Chúa Cha. Đường xa đã làm Chúa đói mệt và khát thực sự. Nhưng Chúa đã coi cơn đói khát tình yêu thương của người dân Samaria còn dữ dội và đáng được khỏa lấp hơn nhiều lần so với cơn đói mệt của Chúa, bởi vì Chúa đã có một quyết tâm: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của Người”.
Lúc này Chúa Giêsu Thánh Thể cũng muốn nói với các em: Chúa cũng khát thực sự, khát vì ước mong cho các em đến với Chúa để được Chúa yêu thương, và Chúa khát vì mong ước các em sẽ trở thành những người môn đệ thân tín của Chúa, để giới thiệu Chúa cho các bạn bè xung quanh em, bằng một đời sống luôn tìm gắn bó và khao khát yêu mến Chúa, và bằng một đời sống luôn yêu thương, tôn trọng và biết giúp đỡ bạn bè, cùng hết những ai em có cơ hội gặp gỡ, như người phụ nữ Samaria hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con yêu mến thờ lạy Chúa. Chúa chính là nguồn mạch Nước Hằng Sống mà Chúa Cha ban tặng cho chúng con. Xin Chúa làm cho tâm hồn con khát khao yêu mến Thánh Thể Chúa luôn, và chỉ khát khao một mình Chúa mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con luôn ý thức rằng: Chỉ ở bên Chúa và trong Chúa, đời sống con mới luôn mãi tươi trẻ và sẽ như hoa đồng nội bên nguồn suối ngát hương thơm.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn mạch Nước Hằng Sống, xin cho con được chìm ngập trong suối nguồn tình thương của Chúa. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể con yêu mến Chúa. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con yêu mến Chúa thiết tha. Amen.