Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Thập Giá thường được hiểu tách biệt khỏi Mầu Nhiệm Vượt Qua, nên bị giản lược vào những đau khổ (nhưng điều xẩy ra cho mình) hay vào những hi sinh, khổ chế, hãm mình và “đền tội” (những điều tự tạo cho mình), hoặc như là bài “kiểm tra, kiểm nghiệm, trắc nghiệm” sự xứng đáng hay khả năng chịu đựng, chịu “sỉ nhục và khiêm nhường”, để được thưởng “vinh quang”.
Trong khi đó, Đức Giê-su nói về Thập Giá của mình là mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa: Khi các ông dương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu.(c. 28)
Chính vì thế, theo lời kể của Thánh Sử Mác-cô, Đức Giêsu dạy, chứ không chỉ báo trước; điều này có nghĩa là những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không chỉ thuộc bình diện số phận phải đón nhận, hay “phải chịu đau khổ, mới đạt tới vinh quang”, nhưng còn là một lựa chọn, một kế hoạch, một mặc khải, một sự hoàn tất liên quan đến lịch sử cứu độ:
Rồi Người bắt đầu DẠY cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. (Mc 8, 31)
(a) Nơi Thập Giá, Đức Giê-su bày tỏ căn tính đích thật của Người, là “Đấng Hằng Hữu”, vì Người là Sự Thiện tuyệt đối, đối lập với sự dữ và tất cả những gì liên quan đến sự dữ: bạo lực, tố cáo, lên án… Chúng ta thường hình dung cách dễ dãi Sự Thiện và Sự Dữ “tố cáo” lẫn nhau; trong khi “tố cáo” tự nó là điều dữ, là hành động đặc trưng của Sự Dữ.
Thập Giá cũng mặc khải cách thức Người mạnh hơn sự dữ và sự chết. Sự Thiện chiến thắng Sự Dữ, không chỉ là khi vượt qua sự chết đi vào sự sống, nhưng còn là sự tự do, không để mình rơi vào vòng xoáy của bánh răng cưa Sự Dữ, theo quy luật sòng phẳng “mắt đền mắt, răng đền răng”, “ác giả ác báo”.
(b) Thập Giá là cách thức Đức Ki-tô bày tỏ “TÌNH YÊU ĐẾN CÙNG” (x. Ga 13, 1) dành cho loài người và từng người chúng ta. “Tình yệu đến cùng” của Người tha thứ, chữa lành và giải thoát chúng ta. Như Thánh Phao-lô xác tin: “Không có gì Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8, 39).
(c) Thập Giá không phải là “ngỏ cụt”, chỉ để thưởng phạt hay thi thố khả năng hãm mình, hi sinh, chịu đựng và các “nhân đức”, nhưng là con đường “vượt qua” dẫn đến sự sống. Sự sống mai sau, nhưng đã hiện diện và sinh hoa kết quả đồi dào, ngay trong sự sống này.
Như thế, điều tồi tệ nhất loài người dành cho Đức Giêsu, nhưng lại được Ngài dùng để bày tỏ căn tính đích thật của mình trong tương quan với Thiên Chúa và với con người. Bài đọc I của Thánh Lễ hôm nay, trích sách Dân Số, ngang qua hình ảnh Con Rắn, còn giúp chúng ta hiểu sâu rộng hơn về mầu nhiệm “Con Người được giương cao” trên Thập Giá trong tương quan toàn bộ lịch sử cứu độ.
* * *
Đức Ki-tô đã hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo “Ý Muốn của Chúa Cha” (x. Mc 14, 36). “Kế hoạch hay ý muốn của Chúa Cha” được ghi khắc ở đâu, nếu không phải là trên con người, trên toàn thể một dân tộc có trước Ngài? Hẳn là kế hoạch này được viết trong một cuốn sách, sách Kinh Thánh: Để cho Kinh Thánh được hoàn tất. (Ga 13, 18; 15, 25; 19, 24.28.36)
Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, theo lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, theo lời Kinh Thánh. (1Cr 15, 3-4)
Nhưng Kinh Thánh là những cuốn sách “biết nói”, bởi vì từng trang sách của Kinh Thánh qui về những cuộc đời cụ thể, giống như cuộc đời cụ thể của chúng ta, và Thiên Chúa đã dùng những cuộc đời cụ thể này để ghi khắc trên đó kế hoạch Người thiết lập cho Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.
Theo Thánh Vịnh 136, Kinh Thánh được hình thành bởi hai chiều kích căn bản: Sáng Tạo (c. 4-9) và Lịch Sử (c. 10-24); và cả hai đều hướng đến ơn huệ “Tấm Bánh” (c. 25). Hai chiều kích này hiện diện từ “thủa tạo thiên lập địa” và trong mỗi ngày sống của chúng ta. Lịch sử của dân tộc Israel là “Lịch Sử Cứu Độ”, được ghi chép lại thành bộ sách gồm ba phần chính và ba phần này đại diện cho toàn bộ Kinh Thánh, như chính Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh long trọng tuyên bố:
Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng (dịch sát bản văn Hi-lạp: như đã được viết): Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại. (Lc 24, 44-46)
MẦU NHIỆM VƯỢT QUA |
|
KINH THÁNH (Lc 24, 11-35 và 35-48) – Chứa đựng hai chiều kích (luôn hiện diện) – Sáng Tạo: ơn huệ sự sống và tất cả những gì cần cho sự sống. – Lịch sử: lịch sử của một dân tộc, của những cuộc đời cụ thể, giống như chúng ta: đầy thăng trầm, đau khổ, tội lỗi… – Kinh Thánh gồm 3 nội dung lớn và đại diện cho toàn bộ Kinh Thánh. – Lề Luật. – Ngôn Sứ. – Thánh Vịnh. —————– – Trong trình thuật Emmau: sau khi Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh (Hiện Thân của MN Vượt Qua hay Paschal Mystery in Person) giải thích Kinh Thánh cho hai môn đệ trên đường Emmau, “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Lc 24, 30). – Như vậy ƠN HUỆ BÁNH, là điểm tới của Kinh Thánh (tương như trong Thánh Lễ) và Kinh Thánh loan báo MN Vượt Qua. |
TẤM BÁNH “Người ban BÁNH…” (Tv 136) – Theo Thánh Vịnh 136: – BÁNH đến từ Sáng Tạo (Tv 136, 4-9): “Lạy Chúa, là Chúa cả trời đất. Chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa mầu của ruộng đất…” Ø và từ Lịch Sử (Tv 136, 10-24): “… và công lao của con người…”
——————– – Nơi bí tích Thánh Thể, mà chúng ta cử hành mỗi ngày trong Thánh Lễ, bánh hằng ngày trở thành chính Chúa, tưởng niệm và hiện tại hóa MN Vượt Qua: * “Đây là Mầu Nhiệm Đức Tin”. * “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại …” – Như vậy, “ƠN HUỆ BÁNH THÁNH THỂ” cũng đến từ Kinh Thánh (lịch sử và sáng tạo), và cả hai đều loan báo MN Vượt Qua. |
“CON TIM BỪNG CHÁY” |
– Tương tự như: A = B và A = C; như vậy B = C)
Mầu nhiệm Vượt Qua tương hợp với Kinh Thánh và với Tấm Bánh; Kinh Thánh tương hợp với Tấm Bánh. Nhận ra những tương hợp này sẽ làm cho “con tim chúng ta bừng cháy” (x. Lc 24, 13-35), vì đụng chạm đến chốn thâm sâu của hữu thể chúng ta (à la profondeur de notre être).
(Cung Thánh, Nhà Tĩnh Tâm – Hội Dòng Chúa Quan Phòng Portieux Cù Lao Giêng: Mầu Nhiệm Vượt Qua – Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh (Đức Ki-tô Phục Sinh là đối tượng của đức tin) ở giữa, và hai bên là Kinh Thánh và Bánh Thánh Thể. Bàn Thánh là nơi cử hành Thánh Lễ, tưởng niệm và hiện tại hóa mầu nhiệm VQ).
* * *
Như thế, tầm mức mầu nhiệm “Đức Ki-tô hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo Ý Muốn của Chúa Cha” không chỉ là làm cho ứng nghiệm một vài câu được lọc lựa trong Kinh Thánh, hay không chỉ dừng lại ở mức độ: thử luyện đau khổ-xứng đáng-ban vinh quang theo qui trình thưởng/phạt hay tương quan “sòng phẳng” của Lề Luật (Lề Luật thì “tốt và thánh”, nhưng bị Sự Dữ sử dụng như phương tiện để phát huy hết sức mạnh hủy diệt !), hoặc ý định thử thách, kiểm chứng hay kiểm nghiệm lòng kiên trì, chịu khổ, chịu thương chịu khó của người đi theo Chúa (Lề Luật thì “tốt và thánh”, tuy nhiên Sự Dữ gieo vào lòng con người thái độ chết chóc: “nghi ngờ, không tin, nên thử để biết”).
* * *
Mầu nhiệm “Đức Ki-tô hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo Ý Muốn của Chúa Cha” có tầm mức TOÀN BỘ KINH THÁNH.
- Phần 1. Mầu nhiệm Vượt Qua và Lề Luật.
– Chương 1. Con Rắn và Lệnh Truyền (St 3; x. Tv 19)
– Chương 2. Tội và Lề Luật (St 3 và Rm 7, 7-13)
– Chương 3. Đức Ki-tô và Lề Luật
(Mt 5, 17-48; x. Ga 8, 2-12).
– Chương 4. Đức Ki-tô và ngày Sa-bát (Mc 3, 1-6)
– Chương 5. Đức Giê-su và Tòa Án (Mt 26, 57-68)
– Chương 6. Sự Dữ
- Phần 2. Mầu Nhiệm Vượt Qua và Ngôn Sứ: Đức Ki-tô, “NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ” (Is 53, 2b-12).
- Phần 3. Mầu Nhiệm Vượt Qua và Thánh Vịnh.
* * *
Phần 2
Mầu nhiệm Vượt Qua và Ngôn Sứ
Đức Ki-tô và Người Tôi Tớ đau khổ (Is 53, 2b-12)
1. “Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”
Các Tin Mừng kể lại Đức Ki-tô Phục Sinh bày tỏ mình ra cách trực tiếp cho các Tông Đồ; đó là ơn đặc biệt Người dành cho các chứng nhân đầu tiên, để có thể thực hiện sứ mạng lớn lao và khó khăn. Nhưng các chứng nhân này không được miễn trừ khỏi kinh nghiệm nhận ra Người qua việc là hiểu Kinh Thánh trong tương quan với cuộc đời của Người, và nhất là với Mầu Nhiệm Chết và Phục Sinh của Ngài.
Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.(Lc 24, 44-46)
Đức Ki-tô phục sinh giải thích mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài khởi đi từ Sách Thánh, bởi vì Sách Thánh loan báo Đức Ki-tô và Đức Ki-tô hoàn tất Kinh Thánh. Thế mà, Sách Thánh kể lại những cuộc đời cụ thể, giống như cuộc đời cụ thể của chúng ta, đầy ơn phúc, nhưng cũng nhiều thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ. Vì thế, chúng ta được mời gọi nhận ra rằng, Đức Ki-tô đã “hoàn tất” Kinh Thánh như thế nào, thì cũng sẽ “hoàn tất” đời mình như thế: cuộc đời mỗi người chúng ta cũng “loan báo” Đức Ki-tô và Đức Ki-tô hoàn tất cuộc đời chúng ta. Chính sự tương hợp này đã đem lại kinh nghiệm thiêng liêng: “con tim bừng cháy” (x. Lc 24, 32).
Đó là kinh nghiệm đã được chia sẻ bởi các chứng nhân đầu tiên của Tin Mừng, vốn là kinh nghiệm làm nên nền tảng cho đức tin của chúng ta. Vì thế, đây cũng phải là kinh nghiệm nhận ra Đức Ki-tô Phục Sinh dành cho mọi người.
2. “Các Ngôn Sứ” và Đức Ki-tô
Theo lời của chính Đức Ki-tô Phục Sinh, cùng với Luật Mô-sê và các Thánh Vịnh, các Ngôn Sứ đã chép về Người và lời của các ngài được ứng nghiệm nơi Người. Trong các lời Ngôn Sứ, các Tông Đồ, chứng nhân đức tin đầu tiên và Giáo Hội (bài đọc 1, Thứ Sáu Tuần Thánh) đặc biệt coi trọng lời của ngôn sứ Isaia về “Người Tôi Tớ Đau Khổ”; và chúng ta có thể hiểu “Người Tôi Tớ đau khổ” diễn tả thân phận của mọi Ngôn Sứ.
a. “Chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta” (c. 2b-6)
Chiêm ngắm Đức Giê-su chịu Thương Khó: “Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong, đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích…” (c. 2b-3)
“Suy đi nghĩ lại” để nhận ra “Lòng Thương Xót” của Chúa: “Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (c. 4); “vì chúng ta phạm tội… vì chúng ta lỗi lầm” (c. 5a); “để chúng ta được bình an… cho chúng ta được chữa lành” (c. 5b); “ĐỨC CHÚA đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta” (c. 6)
b. “Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh” (c. 7-9)
Chiêm ngắm Đức Giê-su chịu đóng đinh, chịu chết và chịu mai táng: “Người bị thủ tiêu… Người bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh” (c. 8); “Người đã bị chôn cất” (c. 9)
“Suy đi nghĩ lại” để nhận ra “Lòng Thương Xót” của Chúa: “Người chẳng mở miệng kêu ca… người chẳng hề mở miệng” (c. 7); “vì tội lỗi của dân” (c 8); “chẳng làm chi tàn bạo… miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (c. 9)
c.“Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (c. 10-12)
Kế hoạch cứu độ của Đức Chúa: “Đức Chúa đã muốn… ý muốn của Thiên Chúa” (c. 10)
Tin nơi Đức Ki-tô Phục Sinh và đón nhận ơn cứu độ bởi lòng thương xót của Chúa: “Người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn” (c. 10); “Người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện” (c. 11); “Người sẽ làm cho muôn người trở nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (c. 11); “Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản…Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (c. 12)
3. Sứ mạng “chứng nhân của lòng thương xót”
Ngày hôm nay, Đức Ki-tô vẫn hiện diện cách kín đáo, như Ngài đã làm với hai môn đệ Emmau (x. Lc 24, 13-35), qua rất nhiều trung gian, nhất là các chứng nhân, để giúp chúng ta nhận ra Ngài, qua việc giải thích Kinh Thánh (Luật, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh) và giải thích mọi sự dưới ánh sáng của Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người.
Điều này phải chẳng làm nên một trong những đường nét căn bản làm nên sứ mạng “chứng nhân của lòng thương xót” của chúng ta? Nếu là như vậy, chúng ta hiểu và sống sứ mạng này như thế nào?
* * *
Cũng vậy, chúng ta thuộc về Đức Kitô, bởi vì Đức Kitô đang sống và sống cho Thiên Chúa. Từ đây, có một hệ quả quan trọng: đức tin của chúng ta nơi sự phục sinh của Đức Ki-tô, Đấng Công Chính sẽ trở nên cụt ngủn và tạm bợ, nếu chúng ta không đồng thời tin mình thuộc về Ngài, và nếu chúng ta không nhìn nhận tội như là sở hữu riêng của chúng ta nhưng Ngài lấy đi, bằng cách giải thoát chúng ta khỏi sự gắn bó của chúng ta với sự chết.
Tin Đức Giêsu được cứu khỏi sự chết và chúng ta được tha thứ và được chữa lành khỏi tội của mình chỉ là một và là cùng một hành vi.