Những vị Thánh trong nhà

0

Ts. Trần Mỹ Duyệt

Gần 300 năm dưới thời vua quan triều Nguyễn từ các thế kỷ 17, 18, và 19, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có hơn 100.000 Kitô hữu đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng và Đức Tin từ năm 1644, năm thầy giảng Anrê Phú Yên chịu tử đạo, cho tới năm 1883. Vua Minh Mạng và vua Tự Đức là những hoàng đế bắt bớ và giết hại các Kytô hữu khốc liệt nhất: 55 vị chịu tử đạo thời vua Minh Mạng (1820-1841), và 50 vị dưới thời vua Tự Đức (1847-1883). Trong số này, 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988, gồm 96 vị người Việt Nam (37 linh mục ,14 thầy giảng, 1 chủng sinh, 44 giáo dân trong đó có 1 phụ nữ là Thánh Anê Lê Thị Thành (tức Anê Đê). Ngoài 117 vị đã được phong Hiển Thánh, ngày 5 tháng 3 năm 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã phong Chân Phước (Á thánh) cho thầy giảng Anrê Phú Yên, người vẫn được coi là vị tử đạo đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam.

Thành ngữ Việt Nam có câu: “Thấy người sang bắt quàng làm họ.” Trong khi ôn lại lịch sử các vị Tử Đạo Việt Nam, tôi mới nhận ra rằng mình cũng là người nhà gần gũi với ít nhất ba trong các vị này. Đó là Thánh Gioan Đoàn Viết Đạt, Thánh Phêrô Phạm Khắc Khoan, và Thánh Gioan B. Đinh Văn Thanh. Cả ba vị đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến Hảo Nho, xứ đạo của tôi.   

HẢO NHO CÓ NÚI THÁNH GIÁ

Ba vị Thánh mà tôi “nhận vơ” là người nhà vì các ngài đều có dính dáng đến xứ Hảo Nho, một xứ đạo có nguồn gốc lịch sử lâu đời của Giáo Phận Phát Diệm, và cũng từ đây hạt giống Tin Mừng dần lan rộng khắp nơi, sản sinh ra nhiều giáo xứ trong giáo phận Phát Diệm, Hà Nội và Thanh Hóa ngày nay.  

Theo lịch sử, sáng ngày 19 tháng 3 năm 1627, cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) và cha Pedro Marquez cập bến Cửa Bạng thuộc Thanh Hóa. Sau hơn hai tuần lưu lại ở đây, hai cha tiếp tục hành trình đến Thăng Long với mục đích gặp chúa Trịnh Tráng để xin phép truyền giáo ở Đàng Ngoài. Tuy nhiên, gặp thời gian chiến tranh, chúa Trịnh đang kéo quân đánh chúa Nguyễn nên hai ngài đã ở lại Thần Phù chờ chúa Trịnh. Hai tháng ở đây từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 6 năm 1627, hai cha đã rửa tội cho khoảng hai trăm người và thiết lập cộng đoàn công giáo đầu tiên của Đàng Ngoài. Các ngài cũng cho dựng một cây thánh giá bằng gỗ trên ngọn núi cao gần biển, và từ đó ngọn núi này có tên gọi là “Núi Thánh Giá.” Sau này cây Thánh Giá gỗ đã được thay bằng chất liệu gạch vôi trộn mật với cốt thép bên trong. Từ xa xa, người trong vùng có thể nhìn thấy thánh giá này. Hiện nay thánh giá vẫn còn tồn tại và là biểu tượng của Hảo Nho, và là điểm đặc biệt của Núi Thánh Giá, một khu vực hành hương tâm linh.  

Gần Núi Thánh Giá còn có một ngọn núi thấp hơn tên là Núi Trụ, một ngọn núi nhỏ của dãy núi đá vôi Tam Điệp hùng vĩ uốn lượn bao bọc hai hồ nhân tạo Đồng Thái và Yên Thắng, nơi đây hai cha đã dựng một ngôi nhà nguyện nhỏ để làm nơi giảng đạo và rửa tội cho dân. Dưới chân Núi Trụ ngày nay, nơi còn lưu lại dấu tích nguyện đường và giếng rửa tội xưa cũ của ngôi nhà thờ cổ Hảo Nho, cái nôi của xứ đạo Đàng Ngoài.

Năm 1629, tức hai năm sau sự có mặt của cha Alexandre de Rhodes và cha Pedro Marquez, xứ đạo đầu tiên mang tên Vanno được chính thức khai lập và là xứ đạo đầu tiên của Đàng Ngoài. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, sau nhiều lần đổi tên như Hiếu Nho, Văn Nho, Thần Phù, giáo xứ Hảo Nho ngày nay thuộc xã Yên Lâm, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.  

Dưới thời cha Phêrô Năm, ngôi nhà thờ chính của giáo xứ Hảo Nho được xây dựng vào năm 1893. Nhà thờ làm bằng gỗ, theo kiểu kiến trúc Á Đông như Nhà Thờ Lớn Phát Diệm. Một kiểu kiến trúc theo hình dáng làng mạc Việt Nam, có tam quan, tức có nhà chính và các nhà thờ cạnh; phía trước lối vào có hai tháp chuông hai bên và một phương đình ở giữa. Trong những năm tháng bị tàn phá bởi chiến tranh, cộng mối mọt do không có người coi sóc nên phương đình và nhà dãy phía Tây đã bị hư hỏng.

Hảo Nho xứ đạo của tôi là nơi hạt giống Tin Mừng được cha cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), một người có công lớn trong việc Latin hóa tiếng Việt gieo xuống cách đây 400 năm, và nay đang cất giữ những lưu tích đặc biệt trong dòng chảy lịch sử của Công Giáo Việt Nam. Họ lẻ Tri Điền nơi tôi sinh ra và được rửa tội cũng trong dòng chảy này. [1] 

TRI ĐIỀN QUÊ TÔI

Tri Điền là một trong 9 họ lẻ thuộc giáo xứ Hảo Nhỏ. Nhà thờ Tri Điền được xây năm 1887. Ngôi thánh đường mà tôi đã được rửa tội, và đã trải qua những ngày tháng tuổi thơ chạy chơi dưới bóng của nó, đã ê a đánh vần những chữ quốc ngữ đầu tiên tại ngôi trường bên nhà thờ, đã từng theo bà đi nhà thờ, và cùng các giáo hữu rửa chân ở chiếc ao trước khi bước vào nhà thờ. Ao này gọi là ao họ. Ngày nay ao vẫn còn đó, và một tượng đài Chúa Giêsu Vua được xây đứng giữa ao. Lần đầu về thăm quê hương năm 1999 và những lần sau này, tôi thật sự cảm động khi ghé thăm họ đạo Tri Điền. Tôi cũng đến viếng đất thánh, nơi mà những người thân trong dòng họ, đặc biệt là ông ngoại của tôi vẫn đang nghỉ yên nơi này. [2]

Ngày 27 tháng 6 năm 2024, họ Tri Điền được nâng lên thành giáo xứ Tri Điền do quyết định của  Đức Cha Phêrô Kiều Công Tùng, Giám Mục Chính Tòa Phát Diệm. Ngài cũng đặt cha Giuse Phạm Văn Minh làm chính xứ tiên khởi. Văn thư của Tòa Giám Mục viết như sau:

[…] Căn cứ theo nhu cầu mục vụ và lợi ích của cộng đoàn Dân Chúa tại Giáo phận Phát Diệm, thể theo phúc trình của Giáo xứ Hảo Nho, và ý kiến của Hội đồng Linh mục ngày 21.7.2023, Tôi Giám mục Phêrô Kiều Công Tùng, với thẩm quyền và trách nhiệm Giám mục Giáo phận Phát Diệm, quyết định: Giáo họ độc lập Tri Điền được nâng lên giáo xứ thuộc Giáo hạt Phát Diệm, Giáo phận Phát Diệm. Địa chỉ: thôn Tri Điền, xã Yên Thái, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Giáo xứ nhận Đức Mẹ truyền tin làm bổn mạng với lễ kính ngày 25/3 hàng năm. […] [3]

NHỮNG VỊ THÁNH CỦA HẢO NHO

1-Thánh Gioan ĐOÀN VIẾT ĐẠT (1765-1798)
Lễ kính: ngày 18 tháng Bảy

“Cha có lánh được thì cũng hại cho cả làng.” Đây là câu nói diễn tả tấm lòng của một vị chủ chăn hết lòng vì con chiên. Ngài thà chấp nhận chịu chết chứ không muốn bổn đạo của mình phải liên lụy, bắt bớ, và sát hại trong cơn bách hại đạo.   

Thánh Gioan Đoàn Viết Đạt sinh năm 1765 tại xứ Đồng Chuối, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tuy mồ côi cha từ bé, nhưng cậu Đạt vẫn muốn dâng mình cho Chúa. Năm 18 tuổi, được mẹ đưa vào gặp cha Loan xứ Đồng Chuối để xin cho vào ở trong nhà xứ. Sau đó được cha cho vào chủng viện. Xong chương trình chủng viện, thầy Đạt được phong chức phó tế và gửi đi giúp xứ. Khoảng tháng 2 năm 1798, thầy chịu chức linh mục lúc ba mươi ba tuổi và được đức cha sai về giúp xứ Hảo Nho.

Trong vai trò linh mục, ngài hết lòng thương yêu và coi sóc con chiên. Giáo dân rất mến ngài. Cha chính xứ là một linh mục thừa sai lúc ấy làm chứng: “Linh mục Đạt có đức nghèo khó, vâng lời và chăm xem sách, siêng năng làm việc mục vụ. Dù người năng ốm đau cũng chẳng kêu ca hay chẳng phàn nàn cái gì bao giờ, cho nên Đức cha và các linh mục khác quý mến người lắm. Khi giảng, cha có lòng sốt sắng và làm cho kẻ có tội động lòng muốn ăn năn trở lại”.

Tháng 7 năm 1798, vua Tây Sơn ra sắc chỉ cấm đạo gắt gao hơn các lần trước. Quân quan truy tìm các linh mục, giáo dân và phá các nhà thờ. Giáo dân Hảo Nho đưa ngài lên núi để ẩn trốn. Trong một đêm, ngài xuống nhà ông trùm làng Mai Lễ để dâng lễ an táng (lễ mồ), và ở đây cha đã bị bắt. Mặc dù được giáo dân giúp đỡ và có thể trốn thoát, nhưng ngài không chịu. Ngài nói: “Cha có lánh được thì cũng hại cho cả làng”. Ngài đã tự nộp mình chịu bắt. Lính giải ngài đi với thầy phó tế Tâm và ba người trong ban mục vụ là ông trùm Mãi, ông nhiêu Danh và ông Việt. Hôm ấy là ngày 14 tháng 7, kẻ đi bắt ngài tên là Nam Cưỡng.

Quân lính đánh đập và điệu ngài vào trong Thanh (Thanh Hóa). Từ khi bị bắt cho đến ngày xét xử, hơn ba tháng, dù phải chịu bao sự khốn khó trong tù nhưng ngài vẫn vui vẻ và hiền lành với mọi người. Giáo dân đến thăm rất đông. Ai trông thấy ngài cũng mến và được ngài vui vẻ, tươi tỉnh đón tiếp. Những ai tỏ ra thương khóc ngài, thì ngài an ủi cho người ta khỏi buồn.

Sợ giáo dân ngã lòng, ngài khuyên bảo họ: “Chịu nạn và chịu chết vì đạo là phúc trọng hơn cả, khắp cả và thế gian những kẻ chịu tử vì đạo từ xưa đến nay thì nhiều lắm. Nước An Nam ta chưa được mấy người”.

Khi điệu ngài ra công đường, các quan giục ngài bước qua thập giá. Họ nói với ngài: “Con chiên bổn đạo mến Cụ lắm, cùng tiếc hết lòng hết sức, có bước qua thập giá thì sẽ cho về với bổn đạo”. Nhưng ngài thưa rằng: “Nếu tôi có bước qua thập giá thì gớm lắm, bổn đạo không nhận tôi là Cụ, cùng chẳng tiếc nữa.” Thấy ngài vững vàng, nhất định không chịu bước qua thập giá, quan truyền cầm gông và kéo lôi ngài bước qua ảnh thánh. Nhưng ngài sấp mình xuống cùng lạy ảnh thánh, lính không thể kéo ngài đi được.

Chiều ngày 19 tháng 9, ngài đi xin quan đề đốc Điều thương những người giáo hữu và liệu cách nào cho bạn tù khỏi phải đòn roi. Ngài nói với quân lính rằng: “Vậy các anh đã có công đưa tôi đi, đưa tôi về, và coi tôi đêm ngày khó nhọc. Tôi có lòng thành nhờ người nhà mời các anh ăn một bữa cơm. Xin các anh thương và cư xử nhẹ nhàng với giáo hữu bị giam cầm”. Quan lại nói: “Chẳng phải là ta muốn làm việc này, bởi lệnh vua truyền thì phải làm”.

Khi biết án tử sắp được thi hành, cha Huấn ở xứ Bạch Bát giả làm thầy dạy học và bạn học với ngài vào Thanh Hóa thăm cùng ban Bí tích Giải tội cho ngài.

Ngày 28 tháng 10 năm 1798, dưới thời vua Cảnh Thịnh, sau khi ngài ngồi chắp tay đọc kinh, mặt hướng về nhà thờ làng Trinh Hà, lý hình thi hành án tử đối với người môn đệ trung tín tại pháp trường Chợ Rạ. Ngài hưởng dương 33 tuổi khi chưa tròn một năm linh mục. Giáo hữu đem xác thánh xuống thuyền chở về bến Phúc Nhạc, và an táng trong nhà thờ làng ấy. Về sau, giáo hữu bốc mộ để trong nhà tư kẻo bị người xấu lấy mất xác. Ngài là linh mục triều thứ hai tử vì đạo, trước đó là linh mục Thánh Emmanuel Nguyễn Văn Triệu, tử đạo ngày 17 tháng 9 năm 1798.

Linh mục Gioan Ðoàn Viết Ðạt được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phong chân phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 cùng lượt trong số 64 vị tử đạo Việt Nam, và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988. [4]

2-Thánh Phaolô PHẠM KHẮC KHOAN (1771-1840)

Lễ kính: ngày 28 tháng Tư

“Sáng danh Chúa trời đất, chúng tôi cám ơn Người vì chúng tôi được chịu chết vì Người.”

Cha Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Diên Mậu, thuộc xứ Hảo Nho, nay thuộc xứ Hiếu Thuận, xã Khánh Mậu, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Giáo Phận Phát Diệm. Khi còn là giảng viên giáo lý (thầy giảng), ngài được giao cho điều hành Nhà Chung Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị, Nam Định). Sau khi chịu chức linh mục, ngài làm chính xứ Phúc Nhạc. Ngài thường xuyên thăm viếng các họ Đông Biên, Tôn Đạo và dòng Mến Thánh Giá, và luôn nhắc nhở giáo hữu về phép công bằng và nhân đức trong sạch. Dù trong xứ có ba cha phó, ngài vẫn chịu khó làm các phần việc và nêu gương sáng cho mọi người.

Ngày 23 tháng 8 năm 1837, khi đi xức dầu bệnh nhân ở Trại Bò về qua Đông Biên, ngài trú đêm trong nhà ông phó tổng Dụ. Sáng hôm sau, lý trưởng làng ấy vây bắt ngài cùng thầy Thanh và thầy Hiếu, hai giảng viên giáo lý. Ngài bị giải lên tỉnh và bị giam gần hai năm do đã quá 60 tuổi nên không bị xử tử ngay.

Khi quan trách rằng: “Sao ông không nghĩ lại mà biết mình đã lầm, hãy bỏ đạo đi, hãy vâng lời vua, đừng có nghe những thằng Tây nữa làm gì”. Ngài đáp: “Sống chết tôi không bỏ đạo”.

Theo bản án ban đầu thì ngài phải trảm quyết vì là linh mục, và phải bêu đầu đủ ba ngày để làm cho người ta sợ. Nhưng vua Minh Mạng lại giảm bớt hình phạt: “Thằng có tội này đã lừa dối người ta đã lâu, đến trước mặt quan nó cũng không chịu bước qua thập giá thì thật là người hư đáng chết. Nhưng mà nó đã hơn sáu mươi tuổi, chẳng còn sống được bao lâu, thì phạt nó như hai đứa đầy tớ nó, là giảo giam hậu”. Theo đó, ngài và hai thầy sẽ bị giam lâu ngày cho chết mòn.

Nhưng ngày 22 tháng 1 năm 1839, nhà vua lại có chỉ ra truyền cho các quan phải ra sức liệu làm sao để bắt ngài bỏ đạo. Ngài bị gọi ra và bảo rằng: “Ông đã biết đức hoàng đế thương ông lắm, vì ông là người bổn quốc. Tuy rằng đức vua bắt giam, nhưng mà sắc chỉ có ý cho ông biết, mình sai mà sửa mình lại mà thôi. Nay có chỉ vua đây truyền cho ông phải bước qua thập giá thì sẽ được tha ngay. Ta cũng thương ông lắm, ông vâng lệnh vua để ta tha ngay bây giờ”. Ngài trả lời lại: “Bẩm quan lớn, tôi biết ơn quan lớn thương tôi, nhưng mà thế tôi phải làm bận lòng quan lớn, không làm sao mà vâng lời vua được. Tôi xin quan lớn cho tôi biết sớm ngày tôi bị xử, để tôi liệu việc riêng tôi mà giã thế gian”.

Các quan biết chắc không có cách nào làm cho ngài bỏ đạo được nên khép án trảm quyết và tâu về kinh. Lần này, vua Minh Mạng châu phê ngay. Khi nhận được tin ấy ngài mừng lắm, nhưng vì đã gần tết, việc thi hành án tạm phải dừng lại.  

Tết rồi, quan lại phải đổi và quan mới đến. Vị quan mới này muốn đòi các vị bỏ đạo, do đó, ngài còn bị giam thêm mấy tháng nữa. Lần này quan cho đòi ngài, thầy Thanh và thầy Hiếu mà bảo rằng: “Chúng bay có nghe tao thì sống, nếu chẳng nghe thì phải chết. Bây giờ hãy suy nghĩ”. Ngài liền thay mặt họ trả lời: “Chúng tôi đã suy nghĩ rồi, chẳng có lẽ nào mà chúng tôi đổi ý được. Án chúng tôi đã ra, chúng tôi chỉ mong quan lớn xử chúng tôi cho chóng, chúng tôi chẳng bước qua thập giá, có muốn làm sự quái gở dường ấy cho được giữ sự sống, thì chúng tôi đã làm rồi”.

Ngày 28 tháng 4 năm 1840, quan cho xử ngài và hai thầy Hiếu và Thanh. Trên đường ra pháp trường ở chân núi Cánh Diều, ba vị vừa đi vừa hát. Sau khi ngài cất tiếng hát Allêluia, lý hình thi hành án xử trảm. Đến đêm giáo hữu đem xác ngài về làng Yên Mối, sau chuyển về Phúc Nhạc.

Linh mục Phaolô Phạm Khắc Khoan được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII nâng lên bậc chân phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988. [5]

3-Thánh Gioan Baotixita ĐINH VĂN THANH (1796-1840)

Lễ kính: Ngày 28 tháng Tư

“Quan lớn thương thì tôi sống, bằng quan lớn muốn bắt tôi bỏ đạo thì tôi bằng lòng chịu chết. Còn đạo thì tôi chẳng bỏ.” Thánh Đinh Văn Thanh đã nói khi bị tra tấn và dụ dỗ bỏ đạo.

Thánh Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh sinh vào năm 1796 tại làng Nộn Khê, xứ Hảo Nho, tỉnh Ninh Bình. Nội hay Nộn Khê nay thuộc về xứ Quảng Phúc, Giáo phận Phát Diệm. Cha mẹ không theo đạo Công Giáo. Năm 18 tuổi, ngài theo đạo và lãnh nhận Bí tích Rửa Tội tại làng Phúc Nhạc.  

Khi Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh được chọn làm giảng viên giáo lý, thì cũng được bổ nhiệm giúp cha Khoan tại xứ Phúc Nhạc. Thầy rất vâng lời, không bao giờ làm trái ý bề trên. Cha Khoan khen ngợi thầy là người siêng năng, chăm chỉ các việc và có năng khiếu riêng, và giao cho thầy trông coi trại Đông Biên. Các người làm trong trại rất phục thầy, nhưng thầy ở khiêm nhường không bao giờ tự tiện làm việc gì trước khi chưa xin ý kiến cha xứ, và chỉ làm những gì cha xứ dạy.

Ngày 24 tháng 8 năm 1837, Cha Khoan đi kẻ liệt về qua trại Đông Biên ngủ đêm ở nhà ông Dụ và bị bắt ở đấy cùng với thầy và thầy Hiếu. Cả ba vị bị giải lên tỉnh Ninh Bình. Trong quá trình thẩm vấn, thầy luôn khiêm tốn, để cha Khoan trả lời trước rồi mới thưa lại y như cha. Lần đầu tiên chịu sự tra hỏi của quan, thầy nói: “Con là đầy tớ của đạo trưởng đây, ngài đã quyết định làm gì thì con cũng làm như vậy. Bẩm quan lớn, nếu quan thương thì con được sống, còn nếu quan bắt con bỏ đạo thì con xin bằng lòng chịu chết. Đối với đạo, con nhất quyết không bao giờ bỏ”.

Vì cho là có Cha Khoan như một sức mạnh cổ võ thầy, các quan sau đó tra khảo thầy riêng. Thầy phải chịu nhiều thử thách, khốn khó, bị bắt bẻ điều này, đe nẹt điều kia trong đạo, lúc ngọt lúc gay gắt, có khi dọa sẽ mổ bụng, đánh dập đầu. Khi bị lôi qua thánh giá, thầy cưỡng lại hết sức, dù lính khiêng thầy, thầy cũng co chân lên. Khi bị quan cho đánh đòn, thầy vẫn chịu đựng mà không nói một lời.

Trước sự vững vàng không nao núng của thầy, các quan ra lệnh cho cha Duyệt là người đã chối đạo (khóa quá) đến khuyên thầy rằng: “Xưa Thánh Phêrô đã chối Chúa ba lần sau vẫn làm đầu Hội Thánh, hãy bắt chước gương ấy rồi sẽ ăn năn trở lại.” Nghe những lời ấy, thầy tỏ vẻ buồn sầu đau đớn nhưng không đáp lại lời nào. Không còn biết dùng cách nào nữa, quan truyền lính đánh thầy thật đau, lúc hai mươi roi, lúc ba mươi roi, nhưng dù đánh bao nhiêu, đánh mấy lần thầy vẫn im lặng chịu không chút nao núng, nên quan ngạc nhiên nói rằng: “Xác tên này trơ như đá, đánh nó như đánh vào gỗ”. [6]

Sau hơn một năm trôi qua trong ngục, ngày 22 tháng 1 năm 1839 vua Minh Mạng truyền cho các quan phải làm sao để ba tù nhân này xuất giáo.

Quan Án cho đòi hai thầy ra đe doạ, dụ dỗ bỏ đạo. Thầy Thanh vẫn cương quyết, khi nào quan giục giã quá thì thầy lớn tiếng đọc kinh Đạo Đức Chúa Trời có 10 điều răn như lời tuyên xưng Đức Tin, khiến quan tức giận quát rằng: “Chúng bay thà chết mà không bỏ đạo thì mặc chúng bay”, rồi quan kết án hai thầy phải trảm quyết.

Vua Minh Mạng châu phê án ngay, nhưng án ra đến tỉnh vào cuối năm, gần tết, các quan hoãn thi hành án. Cũng kỳ này có quan Tuần mới đến thay thế, quan này còn muốn dụ dỗ thêm nên các thầy còn phải giam mấy tháng nữa, nhưng vẫn không đạt được kết quả.

Vậy các quan nhất định xử Cha Khoan, Thầy Thanh và Thầy Hiếu ngày 28 tháng 4 năm 1840. Đêm vọng ngày phúc lộc ấy thầy Thanh đọc kinh cả đêm. Trên đường đi đến pháp trường ở núi Cánh Diều ba cha con hát bài ‘Kinh Tạ Ơn’ có ý cám ơn Chúa vì đã ban phúc trọng mình trông đợi bấy lâu.

Đến nơi xử, Thầy Thanh còn hát mấy câu, rồi đọc kinh một lúc, sau thầy ngửa mặt lên trời, lính chém một nhát, đầu thầy rơi xuống và linh hồn thày bay về trời hợp với ca đoàn các thiên thần và các thánh chúc tụng tạ ơn Chúa muôn đời. Cả Cha Khoan và Thầy Hiếu cũng bị chém hôm ấy. Về sau các bổn đạo đem xác thầy về làng Yên Mối được ít lâu đưa về Phúc Nhạc.

Ngày 27 tháng 5 năm 1900 Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã phong chân phúc cho thầy và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong hiển thánh cho thầy ngày 19 tháng 6 năm 1988. [7]

***

“Thấy người sang bắt quàng làm họ.” Trong nhiều trường hợp có thể là câu nói mỉa mai cho những ai hay phô trương và thích dựa dẫm vào uy tín, thế giá, hoặc địa vị của người này, người khác. Riêng tôi, tôi thấy mình hãnh diện vì được liên quan ít nhiều đến ba vị Thánh Tử Đạo. Điều này cũng khiến cho tôi phải suy nghĩ đến đức tin và đời sống đạo của mình.

Lạy Thánh Đoàn Viết Đạt, Phạm Khắc Khoan và Đinh Văn Thanh xin cầu cho Giáo Hội Việt Nam, giáo dân Phát Diệm, và cho tất cả những ai đã được sinh ra và lớn lên dưới bóng Thánh Giá của xứ Hảo Nho được đức tin kiên trì và lòng mến sắt son để sống chứng nhân giữa lòng thế giới hôm nay, như các ngài đã sống và đã chết.

___________

Tham khảo:

  1. https://nhathoconggiaovietnam.com/nha-tho/nha-tho-co-hao-nho
  2. https://phatdiem.org/hat-phat-diem/giao-xu-hao-nho.html
  3. https://phatdiem.org/tin-hat-phat-diem/thanh-le-ta-on-cong-bo-thanh-lap-giao-xu-tri-dien-va-bo-nhiem-cha-tan-chinh-xu.html
  4. Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam”. Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam WHĐ
  5. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thanh-phaolo-pham-khac-khoan-tu-dao-ngay-28-thang-4-nam-1840-48930Trích sách “Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam” Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam WHĐ
  6. https://vulehuan.com/vi/blog/2023/12/thanh-gioan-baotixita-dinh-van-thanh-thay-giang-1796-1840-cac-thanh-tu-vi-dao-tai-viet-nam-aAD8z4W0GD1
  7. Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn https://www.tonggiaophanhanoi.org/ngay-28-4-thanh-gioan-baotixita-dinh-van-thanh-thay-giang-1796-1840/ Trích sách “Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam” Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam WHĐ

Comments are closed.

phone-icon