Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Tin Mừng (Mt 1, 1-17)
1 Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Ápraham:
2 Ông Ápraham sinh Ixaác; Ixaác sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em ông này;3 Giuđa ăn ở với Tama sinh Perét và Derác; Perét sinh Khétxơron; Khétxơron sinh Aram;4 Aram sinh Amminađáp; Amminađáp sinh Nácson; Nácson sinh Xanmôn;5 Xanmôn lấy Rakháp sinh Bôát; Bôát lấy Rút sinh Ôvết; Ôvết sinh Giesê;6 ông Giesê sinh Đavít.
Vua Đavít lấy vợ ông Urigia sinh Salômôn7 Salômôn sinh Rơkhápam; Rơkhápam sinh Avigia; Avigia sinh Axa;8 Axa sinh Giơhôsaphát; Giơhôsaphát sinh Giôram; Giôram sinh Útdigia;9 Útdigia sinh Giotham; Giotham sinh Akhát; Akhát sinh Khítkigia;10 Khítkigia sinh Mơnase; Mơnase sinh Amôn; Amôn sinh Giôsigia;11 Giôsigia sinh Giơkhongia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Babylon.
12 Sau thời lưu đày ở Babylon, Giơkhongia sinh Santiên; Santiên sinh Dơrúpbaven;13 Dơrúpbaven sinh Avihút; Avihút sinh Engiakim; Engiakim sinh Ado;14 Ado sinh Xađốc; Xađốc sinh Akhin; Akhin sinh Êlihút;15 Êlihút sinh Elada; Elada sinh Mátthan; Mátthan sinh Giacóp;16 Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô.
17 Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Ápraham đến vua Đavít, là mười bốn đời; từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời.
(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)
****
Lời Chúa trong những tuần vừa qua của Mùa Vọng, nhất là khi lắng nghe sứ điệp và chiêm ngắm ngôi vị của thánh Gioan Tiền Hô, chắc chắn đã khơi dậy nơi chúng ta lòng khao khát hiểu biết Đức Kitô sâu xa hơn, vì Ngôi Vị của Ngài là mầu nhiệm khôn cùng và vì sự hiểu biết Đức Kitô, theo thánh Phaolô, là quí giá nhất: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Phil 3, 7). Và chắc chắn chúng ta đã có kinh nghiệm và cảm nếm về sự quí giá này rồi trong hành trình đức tin và ơn gọi của chúng ta.
Nhưng để tìm hiểu Đức Kitô, chúng ta nên bắt đầu từ đâu và giai đoạn nào? Cũng tương tự như tìm hiểu một người, chúng ta phải trở về “nguồn gốc” của Ngài. Nói về nguồn gốc, chúng ta nghĩ ngay đến hành trình từ trời xuống thế, nghĩa là nguồn gốc theo chiều dọc trực tiếp từ Thiên Chúa, như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Người đã từ trời xuống thế”. Nhưng các Tin Mừng trình bày cho chúng ta một nguồn gốc khác, theo chiều ngang, đó là bản gia phả, hay nguồn gốc của Đức Kitô, vì Ngài cũng là Con của Con Người, như sau này Ngài thích tự xưng như thế, và nhất là Ngài có sứ mạng “mang lấy các bệnh hoạn tật nguyền” của loài người và của từng người chúng ta.
Ngôi Hai Thiên Chúa mặc lấy thân phận loài người chúng ta. Và điều căn bản nhất của thân phận con người của từng người chúng ta, là có gia có phả, nghĩa là, qua biến cố được sinh ra, Người thuộc về một gia đình, một gia tộc, một dân tộc và ngang qua một dân tộc Người thuộc về loài người, trong đó có dân tộc của chúng ta, có gia tộc và có gia đình của chúng ta. Và ở chiều kích nhân loại này, Thiên Chúa cũng vẫn là ngọn nguồn, bởi vì loài người xuất phát từ Adam và “Adam là con Thiên Chúa”! (Lc 3, 38).
Thiên Chúa (Mc và Ga) |
||||
Thiên Chúa | Adam và Eva | Abraham | Đavít | Đức Giêsu Kitô |
Lc 3, 2338 | Mt 1, 117 | |||
Loài người | Israel: Dân Tộc được Thiên Chúa tuyển chọn | |||
Tôi và dân tộc tôi: cùng nguồn gốc với Israel; Israel được tuyển chọn để chia sẻ; cách Thiên Chúa yêu thương Israel là cách Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc và mọi người. | ||||
Đức Kitô vừa có nguồn gốc trực tiếp từ Thiên Chúa, vừa có nguồn gốc từ một dân tộc như chúng ta, và vừa có cùng nguồn gốc với chúng ta, vì mọi dân tộc đều xuất phát từ Ông Bà Nguyên Tổ. Giống như mỗi người chúng ta, chúng ta vừa thuộc về một dân tộc, và vừa thuộc về loài người, được Thiên Chúa tạo dựng. Tại sao Đức Kitô có hai nguồn gốc? Đó là để mang lấy, đem lại ý nghĩa và dẫn tới hoàn tất, với tư cách – và chỉ có thể với tư cách này – là Ngôi Lời Thiên Chúa, được sinh ra từ thủa đời đời.
– Nguồn gốc Thiên Chúa: Tin Mừng Máccô không nói đến gia phả của Đức Giêsu, và cũng không tường thuật thời thơ ấu của Đức Giêsu, nhưng lại mở đầu Tin Mừng với câu: “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”, tương tự như Tin Mừng Gioan: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1, 1).
– Nguồn gốc Con Người: Còn Tin Mừng Mátthêu khẳng định ngay từ đầu: “Đức Giêsu Kitô, con của Đavít, con của Abraham”. Đức Giêsu là người con của một dân tộc cụ thể, như tất cả mọi người chúng ta. Tin Mừng Luca sẽ đưa Đức Giêsu đi xa hơn: Đức Giêsu Kitô là con của Adam và Adam là Con Thiên Chúa. Như thế, Đức Giêsu là con Thiên Chúa không chỉ từ thủa đời đời, nhưng Ngài là Con Thiên Chúa ngang qua Ông Bố của cả loài người chúng ta. Ngài còn là người con của Nhân Loại, là “Con của Người”, là danh xưng mà Ngài rất thích dùng.
* * *
Bản gia phả, dịch sát nghĩa là “cuốn sách về nguồn gốc”: “Gia phả của Đức Giêsu Kitô, con vua Đavít, con tổ phụ Abraham”. Một bản gia phả luôn luôn là khô khan, xa lạ và đều đặn (theo nghĩa là người này sinh ra người kia). Nhưng nếu chúng ta chịu khó dừng lại để “ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng”, chúng ta sẽ khám phá cả một lịch sử sống động ở bên dưới hàng chuỗi những tên gọi, thậm chí cưu mang những tên gọi. Khi đó, chúng thấy mình thật gần gũi và có thể cảm nếm được; bởi vì, Đức Kitô cũng phát xuất từ một lịch sử đầy thăng trầm như chúng ta và còn hơn thế nữa cùng “nguồn gốc” với chúng ta: Đức Kitô là con Adam, và “Adam là con Thiên Chúa” (x. Lc 3, 2338).
1. Mầu nhiệm Nguồn Gốc của Đức Giêsu Kitô
Ngay câu đầu tiên của bản văn, cũng là câu đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Mátthêu, đã mở ra cho chúng ta một chân trời rất rộng: “Cuốn sách về nguồn gốc của Đức Giêsu Kitô”, vì câu này làm chúng ta nhớ một câu khác trong sách Sáng Thế: “Cuốn sách nguồn gốc của Adam” (St 5, 1). Điểm khác nhau: trong Sáng Thế, đó là gia phả con cháu Adam; trong trình thuật Tin Mừng, đó là gia phả tổ tiên của Đức Giêsu. Như thế, trình thuật Tin Mừng mời gọi chúng ta nhận ra Đức Kitô là Adam mới, Ngài làm cho tất cả những gì xẩy ra trước Ngài, và tất cả những gì xẩy ra sau Ngài trở nên có ý nghĩa, có hướng đi và có niềm hi vọng.
Sứ điệp của bản gia phả không phải là xác định tương quan máu huyết, nhưng là Đức Kitô, ngang qua cuộc sống của mình, và nhất là với Mầu Nhiệm Vượt Qua, sẽ thực sự đảm nhận lịch sử cứu độ, và ngang qua lịch sử cứu độ, lịch sử cụ thể của loài người và của từng người để đưa tới đích, là sự sống trong Thiên Chúa. Như thế, lịch của loài người, của từng dân tộc, của từng người trở nên có ý nghĩa và có hướng đi.
* * *
Mặc khải về “Nguồn Gốc” của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa “Nhập Thể” (chiều dọc), “có gia có phả” (chiều ngang) giúp tôi hiểu và sống (gánh vác, đảm nhận, “hòa giải”…) những “thăng trầm” trong đời tôi và nơi những người thân yêu của tôi như thế nào?
2. Một lịch sử đầy những thăng trầm
Đức Kitô thuộc về một lịch sử đầy những thăng trầm: thật vậy, thời các tổ phụ đầy trắc trở về mọi mặt; thời sinh sống và rốt cuộc trở thành nô lệ bên Ai Cập; thời thử thách trong sa mạc; thời lập quốc đầy chiến tranh loạn lạc, thời hoàng kim của Đavít và Salomon, nhưng mau lụi tàn bởi sự chia rẽ Bắc Nam; thời lưu đầy bi đát, thời hậu lưu đầy thật ảm đạm với cảnh bị các đế quốc thay phiên nhau đô hộ[1]. Vậy mà, lịch sử dân tộc của Đức Giêsu vẫn có một cấu trúc cân đối một cách hoàn hảo: 14 – 14 – 14! (14 là hai lần 7), nghĩa là có ý nghĩa và như thế, hướng tới một cùng đích. Chúng ta hãy dừng lại “đọc và cầu nguyện” với từng giai đoạn của bản gia phả.
Giai đoạn một: vua Đavít là đỉnh cao, vì vương triều của ông là điểm tới của lịch sử các tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop và Giuse. Thật vậy, Abraham được hứa ban cho vô điều kiện một dòng dõi. Đavít, người con của Abraham cũng nhận được cùng một lời hứa và cũng vô điều kiện: ngai vàng vĩnh viễn dành cho một trong những người con của nhà vua (Tv 72,17; Tv 47, 10), và mọi dân tộc sẽ đến qui tụ chung quanh ngai vàng Đavít. Trước đó, Đức Chúa cũng tuyên bố điều tương tự dành cho Abraham: Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12, 3). Như thế, vua Đavít sẽ mang lại sự hoàn tất hoàn hảo cho lời hứa dành cho Abraham.
Giai đoạn hai: vua Đavít là đỉnh cao của giai đoạn một, nhưng đồng thời, thời đại vua Đavít cũng chuẩn bị cho thời kì suy thoái và cuối cùng là sụp đổ sau đó. Thật vậy, kết thúc phần 2 của gia phả là biến cố lưu đày; với biến cố này, mọi điều tốt đẹp của lời hứa đều tan biến hết: đền thờ, đất đai, ngai vàng. Đất nước rơi vào tay người Babylon.
Giai đoạn ba: Giai đoạn ba là thời gian hậu lưu đày ở Babylon, dân tộc vẫn phải sống lệ thuộc vào người Ba Tư, tiếp theo là người Hy Lạp và sau cùng là người Roma. Giai đoạn này kéo dài khoảng 6 thế kỉ. Tuy nhiên, Gia phả của Đức Giêsu theo cách nhìn của thánh sử Mátthêu, từ thời lưu đày cho đến thánh Giuse và Đức Giêsu, vẫn có một vai trò, vẫn có một ý nghĩa đối với dân tộc của Đức Giêsu. Cho dù trong thực tế, chẳng còn gì là sôi nổi, thậm chí bị mất hút nữa. Có thể nói lịch sử (theo nghĩa những biến cố đáng lưu tồn) đã dừng lại với thời hậu lưu đày. Kinh Thánh có rất ít trình thuật về thời này. Tuy nhiên khoảng trống này lại được lấp đầy bởi sự chờ đợi, chờ đợi đến tận cùng, khi mà chẳng còn gì để hy vọng (trường hợp các bà Sara, Elisabeth…). Lời nguyện của rất nhiều Thánh Vịnh diễn tả sự chờ đợi tận căn này: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề…” (Tv 116B; Tv 4243; Tv 106).
Đức Giêsu đến không chỉ đến để hoàn tất lời hứa được ban cho Abraham và Đavít, nhưng còn đi vào trong khoảng không gian của đợi chờ (nhưng không vì thế mà Ngài đóng lại, vì chúng ta vẫn sống trong “Mùa Vọng” lớn, hướng về ngày Người lại đến). Và Ngài sẽ đi vào sự chờ đợi trong đắng cay một cách thật sự: “Đấng Kitô phải chịu đau khổ nhiều bởi những kẻ tội lỗi”, để định hướng, mang lại ý nghĩa, niềm hi vọng và dẫn đưa tới sáng tạo mới.
3. Và đầy tội lỗi
Hơn nữa dân tộc này cũng đầy tội lỗi như bao dân tộc khác; và tội nhân hiển nhiên là các ông, nhất là vua Đavít, một khuôn mặt tượng trưng cho lời hứa, vì gia phả được trình bày theo quan niệm phụ hệ.
Tuy nhiên, các bà vẫn có mặt trong gia phả của Đấng Cứu Thế. Điều này nhắc nhớ sự ưu ái xuyên suốt của Thiên Chúa dành cho các phụ nữ, trong sáng tạo và lịch sử: bà Evà, bà Sara, và nhất là Đức Maria. Đặc biệt, lời hứa chiến thắng Sự Dữ được ban cho bà Evà và bà được ban cho danh hiệu cao quí: “Mẹ của mọi chúng sinh” (St 3, 15.20), cho dù đã vi phạm lệnh truyền! Hơn thế nữa, hình ảnh người phụ nữ được đưa lên hàng đầu trong thời điểm trọng đại của lịch sử cứu độ, là mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô, ngang qua thánh nữ Maria Magdala (x. Ga 20, 12. 1118). Vậy, các bà mẹ hiện diện trong gia phả của Đức Giêsu là những ai?
– Bà Tama, phạm tội loạn luân với bố chồng
(Mt 1, 3; St 38)!
– Bà Rakháp, là cô gái đứng đường đất Canaan
(Mt 1, 5; Gs 2)!
– Bà Ruth gốc Moab, nghĩa là dân ngoại
(Mt 1, 5; Rt 4, 1222)!
– Và bà Bátseva, vợ của tướng Uria, phạm tội ngoại tình với vua Đavít (Mt 1, 6; 2 Sm 11)!
Khám phá này làm cho chúng ta thật an ủi: Đức Giêsu bén rễ trong tội của dân tộc Ngài, dân tộc mà Ngài sẽ cứu vớt (Mt 1, 21); và cách Ngài cứu sẽ rất lạ lùng: Ngài sẽ mang lấy vào thân mình ngang qua dân tộc này, tội lỗi của tất cả mọi người:
Ngài đã mang lấy các tật nguyền của ta
và gánh lấy các bệnh hoạn của ta. (Mt 8, 17 trích Is 53, 4)
Và chính trong một lịch sử như thế mà Thiên Chúa làm trào vọt những điều lạ lùng, trào vọt ra Thánh Gia của thánh Giuse, của Đức Maria và của chính Đức Giêsu, làm trào vọt ra ơn cứu độ.
* * *
Là Kitô hữu, chúng ta đi theo Đức Kitô trong một ơn gọi, ơn gọi gia đình, dâng hiến hay độc thân; và ơn gọi của chúng ta cũng được Thiên Chúa chuẩn bị từ xa, và cũng bằng những nẻo đường rất bình thường và cũng rất đời thường, và với cả những sai lầm tội lỗi nữa (chẳng hạn tội, của các anh đối với người em Giuse, trong sách Sáng Thế). Chúng ta được mời gọi nhớ lại “lịch sử cứu độ” đời mình và suy đi nghĩ lại trong trong lòng để nhận ra:
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
(Tv 136)
Và tình thương muôn ngàn đời của Thiên Chúa được thể hiện cách rạng ngời và trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Đó chính là “nguyên lý và nền tảng” mang lại cho chúng ta sức mạnh để yêu mến và dấn thân bền vững hơn, theo gương của Đức Maria và Thánh Cả Giuse.
[1] Khi vua Salômon chết, năm 930, vương quốc bị phân chia ra làm hai : phía nam, vương quốc Giu-đa, thủ đô là Giêrusalem; phía bắc là vương quốc Israel, thủ đô là Tirsa, sau đó là Samaria. Vào năm 722, người Assyria thôn tính vương quốc Israel. Năm 587, Giêrusalem bị phá hủy và người Juda bị đưa đi lưu đày ở Babylon. Năm 539, vua Perse, là Cyrus chinh phục Babylon. Người Do Thái dần dần được trở về lập cư quanh Giêrusalem, nhưng sống dưới sự thống trị của người Perse. Từ năm 333, Alexandre chinh phục vùng Cận Đông và áp đặt nền văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp. Từ năm 63, người Roma chiếm cứ vùng Cận Đông và vua Hêrôđê cai trị từ năm 40 đến 4, trước công nguyên (xem Étienne Charpentier, Pour lire l’Ancien Testament, Paris, Editions du Cerf, 1994, trang 22-23).