Sr. Anna Trúc Quỳnh
Trong bối cảnh của những thăng trầm, xáo trộn về mặt chính trị và xã hội do muôn vàn hình thức được thúc đẩy bởi Thần Tài, một thách đố đặt ra cho Kitô hữu không chỉ hệ tại ở bổn phận giữ giới răn ngày Chúa Nhật theo nghĩa đen nhưng còn là việc hiểu, xác tín và sống cách sống động để ngày thánh không kết thúc như một ngày vắng bóng Thiên Chúa. Chính vì lẽ đó, lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong tông huấn Sacramentum Caritatis[1]:“Chính trong ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa mà con người hiểu được ý nghĩa cuộc sống và lao động của mình”[2] vẫn còn giá trị thiết thực và đầy tính năng động. Theo tư tưởng tái khám phá đức tin qua cách sống cộng đoàn, quy tụ mang tính Giáo Hội và sống ngày Chúa Nhật theo tinh thần Kitô Giáo của Đức Giáo Hoàng, bài viết tập trung trình bày bối cảnh, nội dung và ý nghĩa cốt yếu của lời khẳng định và đưa ra một vài suy tư ngõ hầu giúp những người đã hay chưa nhận biết Chúa chân nhận được niềm hoan lạc và sự tự do được sống ân nghĩa trong ngày của Chúa. Để hiểu rõ hơn về nội dung, chúng ta cùng tìm hiểu hoàn cảnh xuất hiện của lời khẳng định trên.
1. Bối cảnh
Suy tư và đề ra những đường hướng mục vụ liên hệ tới việc tôn sùng Thánh Thể nhằm gợi lên trong Hội Thánh những động lực và lòng sốt sắng mới mẻ với Bí tích này là nội dung chính yếu của khóa họp của Hậu Thượng Hội đồng Giám mục vào năm 2005 tại Vatican. Nội dung này đã được đúc kết qua Tông huấn Sacramentum Caritatis. Ngoài nội dung, điểm đặc biệt về bố cục của Tông huấn gồm 97 số này được trình bày trong sự tương thích với bố cục của sách Giáo lý Hội thanh Công giao qua ba phần: mầu nhiệm chúng ta tin (số 1-33); mầu nhiệm chúng ta cử hành (số 34-69) và cuối cùng là mầu nhiệm để sống (số 70-97). Như vậy, lời khẳng định số 74 “chính trong ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa mà con người hiểu được ý nghĩa cuộc sống và lao động của mình” được xác định nằm ở phần cuối của tông huấn – Thánh Thể mầu nhiệm để sống. Nếu xét theo vị trí xuất hiện trong tông huấn thì có hiểu theo một cách nào đó, lời khẳng định trên minh nhiên trở thành lời mời gọi các Kitô thực hành tròn đầy của Bí Tích Thánh Thể ngang qua việc giữ Điều Răn thứ Ba – giữ ngày Chúa Nhật. Vì ý nghĩa căn cốt về ngày được thánh hiến hay còn gọi là ngày của Chúa – ngày Chúa Nhật là thời gian mọi người được quy tụ lại để sống sự Phục Sinh của Đức Kitô và hiệp thông với Ngài. Như vậy, dưới lăng kính của việc tuân giữ ngày Chúa Nhật, chúng ta có thể hiểu được gì về ý nghĩa cuộc sống và lao động của mình?
2. Ngày Được Thánh Hiến Cho Thiên Chúa
Trước tiên, để trả lời được câu hỏi trên chúng ta cần phải hiểu đúng về khái niệm ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa. Nền tảng Kinh Thánh Cựu Ước cung cấp cho chúng ta biết “ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa” (ngày thứ bảy theo Do Thái Giáo) là ngày nghỉ ngơi (Sabbath) để phụng thờ và ca tụng công trình tạo dựng tốt đẹp của Thiên Chúa (St 1,1-2,3); là ngày dân It-ra-el tưởng nhớ biến cố Thiên Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và cũng là ngày người lao động được nghỉ ngơi (Đnl 5,15). Còn Tân Ước mở ra cho chúng ta biết “ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa” là ngày thứ nhất trong tuần (Mc 16,2) – ngày Chúa Nhật. Ngày này gợi lại cho chúng ta nhớ đến ngày đầu tiên của công trình sáng tạo; cũng là ngày thứ tám[3] (Ga 20,26). Thông qua ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa, Giáo hội sơ khai đã tề tựu nhau lại cùng nghe Lời Chúa, cử hành Thánh Thể (Cv 20,7) và tưởng nhớ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Như vậy, đứng trên quan điểm lịch sử và thần học, ngày Chúa Nhật của người Kitô Giáo không phá hủy mà cũng không thay thế ngày Sabbath của người Do Thái, nhưng còn kéo dài và suy tôn nữa[4]. Như vậy, dường như qua nền tảng Kinh Thánh, chúng ta chỉ mới nhận ra được ý nghĩa chiều dọc của ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa được biểu lộ khi con người quy hướng về Ngài. Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về ý nghĩa mà người viết tạm gọi là “chiều ngang” của ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa qua khía cạnh về ý nghĩa cuộc sống và lao động của mình?
Bởi Thiên Chúa là Đấng thấu hiểu và trao ban những điều kiện cần thiết cho sự sống tự do của dân Ngài. Cho nên, ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa được lập vì hai mục đích: trước nhất là nhằm giải phóng con người để họ phụng sự Chúa, kế đến là nhằm bảo vệ nhân loại, đặc biệt là người nghèo trước cảnh bị chủ bóc lột[5]. Ngang qua việc tuân giữ giới răn ngày Chúa Nhật, tầm nhìn của con người được hướng về mục đích thật sự của đời mình khi tạm ngưng làm việc và tham dự cử hành Hy Tế Tạ Ơn. Sự nghỉ ngơi trong ngày thánh hiến dành cho Thiên Chúa mở ra cho con người viễn tượng về một sự tự do tròn đầy hơn, đó là sự tự do của ngày Sabbat vĩnh cửu (Hr 4, 9-10)[6]. Chính nơi đây, họ khám phá ra diện mạo của Thiên Chúa và của chính mình.
Ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa không phải là ngày nằm ngoài vòng thời gian lịch sử của nhân loại nhưng nó gắn liền với nhịp sống của một tuần lễ: sau chu kỳ sáu ngày lao động, một ngày nghỉ việc sẽ được xen kẽ vào. Sự tạm ngưng làm việc không đơn thuần để cho thân xác được rảnh rỗi[7], thảnh thơi nhưng nhắm đến mục đích là tuyên xưng sự toàn năng, sự uy quyền của Thiên Chúa trên vũ trụ và để khẳng định tính cao trọng, phẩm giá của con người trên lao động. Sự nghỉ ngơi cho phép con người nhớ đến và sống lại những kỳ công của Thiên Chúa, từ cuộc tạo dựng cho đến công trình Cứu Chuộc, nhận ra chính mình như là tác phẩm của Chúa (Ep 2,10) và tạ ơn Đấng là tác giả của sự sống mình. Hồng ân cao quý nhất là khi con người mang trong mình hình ảnh Thiên Chúa, con người trở nên dấu chỉ quyền năng của Thiên Chúa để xác định quyền tối thượng của Ngài như là Chủ Tể duy nhất của vũ hoàn[8]. Vì Thiên Chúa đã sáng tạo trái đất và trao lại cho con người như quà tặng quý giá. Bởi vì có phẩm giá cao quý – là một nhân vị, con người được Thiên Chúa đặt định chinh phục trái đất (St 1,28) ngang qua việc lao động và nghỉ ngơi, họ tham gia vào chính việc làm và nghỉ ngơi của Thiên Chúa (x. Xh 20,9-10)[9]. Hơn thế nữa, chính Thiên Chúa đã đi bước trước để trao ban sự nghỉ ngơi cho con người. Đây như là dấu hiệu của giao ước đời đời giữa Ngài với nhân loại. Thế nên việc nghỉ ngơi luôn là thời gian cần thiết để tìm lại ý nghĩa của công việc đang dang dở, ý nghĩa cuộc sống đang tiếp tục, và phải nhắm đến một sự an nghỉ vĩnh hằng bên Thiên Chúa[10].
Từ những suy tư trên, một đàng chúng ta nhận ra ý nghĩa đích thực của sự nghỉ ngơi, tạm ngưng làm việc, nhưng đàng khác chúng ta cũng nhận ra được ý nghĩa tận căn của lao động. Xét cho cùng, lao động chỉ là một phần của đời sống, chứ không phải là chính đời sống[11]. Vì lao động không là mục đích của con người, mà lao động quy hướng về con người. Bởi thế, mục đích của đời người không phải là tích lũy của cải hay kiếm tìm danh tiếng[12] (x.Mt 6,19-21), nhưng để đạt đến sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa, thờ phượng Chúa và yêu mến người thân cận cách tích cực. Nhưng nhìn vào thực tế ngày nay, đặc biệt ở các nước phát triển, nhiều người chỉ sống vì công việc. Họ biến lao động trở thành cứu cánh và vô tình chính lao động lại che mờ mục đích tối hậu của đời sống trong cái thân và cái phận mong manh của họ. Như vậy, điều răn giữ ngày nghỉ Chúa Nhật cũng là thành trì chống lại sự nô lệ tự nguyện hay ép buộc của con người vào công việc. Ngừng hoạt động chính là khoảng thời gian để con người có khoảng cách đối với những công việc. Bởi lẽ, lao động luôn tạo ra, luôn “chực chờ trong thanh quản” con người để hút và đè bẹp con người dưới sức nặng của nó.
3. Kết Luận
Như vậy, chính việc tuân giữ việc nghỉ ngày Chúa Nhật mà người Kitô hữu được mời gọi đến bày tỏ ơn gọi của mình: là một con người lắng nghe, một con người Thánh Thể – nghĩa là luôn mang trong mình tâm tình tạ ơn bên trong một Giáo Hội đồng hành với loài người. Như ước mong ngày Chúa Nhật là ngày hoan lạc và thư giãn cho con cái của mình, Mẹ Giáo hội đã khuyến dụ: hãy để “Ngày của Chúa là ngày lễ độc đáo. Vì thế cần giới thiệu và dạy cho giáo dân biết cách làm sao để ngày ấy thật sự trở thành một ngày tươi vui và nghỉ ngơi” (PV 106). Chính vì thế, ngoài việc tham dự Hy tế Tạ ơn, người Kitô hữu cũng sống tâm tình tạ ơn qua việc gặp gỡ, sống với tha nhân để làm tỏa lan niềm vui; chia sẻ chén rượu bằng cách thực hành lòng hiếu khách. Sự hảo tâm đối với những người nghèo những người đau ốm, những người lớn tuổi, và những ai đang sống bên lề xã hội. Bởi lẽ, không thể có bữa tiệc nào mà không có sự đón tiếp gặp gỡ và cũng không thể có bữa tiệc nào mà không sẻ chia, không có liên hoan mà không có sự cho đi cách nhưng không như Bữa Tiệc Thánh Thể trong ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa.
____________________________
[1] Lm. Augustino Hoàng Đức Toàn, Đôi Điều Tìm Hiểu Về Tông Huấn Sacramentum Caritatis, Trích tại: http://gpbanmethuot.com/giao-duc-kito-giao/doi-dieu-tim-hieu-ve-tong-huan-sacramentum-caritatis-30835.html, truy cập ngày: 29/05/2021.
[2] ĐGH. BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, về Bí Tích Thánh Thể nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, bản dịch của UBGLĐT/HĐGMVN, 2007, số 74.
[3] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2174.
[4] Ranuero Cantalamessa, Mầu Nhiệm Vượt Qua trong lịch sử, phụng vụ và đời sống, Lm Micae Trần Đình Quảng chuyển ngữ, NXB Tôn Giáo, tr.65. “ Đó là ngày Phục Sinh, ngày đầu của tạo dựng mới nhưng sự phục sinh và tạo dựng mới là sự sống sung mãn và việc hoàn tất tạo dựng nguyên thủy”.
[5] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2193.
[6] Hội Đồng giám Mục Việt Nam, ủy ban Bác Ái xã hội, Tóm lược Học thuyết xã hội giáo Hội Công Giáo, số 258.
[7] Lm. Phaolo Nguyễn Thành Sang, Mười Điều răn- thần học luân lý chuyên biệt, Giáo Trình Học viện Công Giáo Việt Nam, lưu hành nội bộ, năm 2021, tr.71.
[8] G.von Rad. Teologia dell’ Antico Testamento I. (Paideia, Presica: 1974), tr.203-218.
[9] “Trong sáu ngày ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Nhưng ngày thứ bảy là hưu lễ kính Yavê Thiên Chúa của ngươi; ngươi sẽ không làm bất cứ việc nào, ngươi và con trai con gái ngươi, tớ trai tớ gái của ngươi. Vì trong sáu ngày, Yavê đã làm nên trời đất, biển và tất cả mọi sự trong các nơi ấy, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy; bởi thế Yavê đã chúc lành cho ngày thứ bảy và tác thánh nó” (Xh 20, 9-11)
[10] Lm. Đa Minh Nguyễn Đức Thông CSsR, Luân Lý Chuyên Biệt, lưu hành nội bộ, học viện dòng Chúa Cứu Thế, 1998, tr. 78.
[11] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam,Ủy ban Giáo Lý Đức Tin, Docat, NXB. Tôn Giáo, tr.138. Câu nói nổi tiếng của Robert Blum (Sinh năm 1935), chính khách Đức “Nếu quả thật lao động là tất cả, thì sẽ chẳng còn có ý nghĩa gì trong đời của những người khuyết tật, của người già yếu, và ngay cả của trẻ thơ”.
[12] “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,19-21)