Nguồn: exaudi
Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN
Tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã chủ sự Thánh lễ Năm Thánh cho các Nhà Truyền giáo và Người Di cư, trong đó ngài nhấn mạnh đến tính cấp bách của một Giáo hội “ra đi” và sự cần thiết của văn hóa huynh đệ trong bối cảnh của sự thờ ơ và kỳ thị.
Trong khuôn khổ Năm Thánh của Thế giới Truyền giáo và Di dân, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự Thánh lễ trọng thể tại Quảng trường Thánh Phêrô, trong bầu khí hân hoan và suy tư về vai trò của truyền giáo trong Giáo hội đương đại.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “toàn thể Giáo hội là truyền giáo” và ngày nay, biên giới của việc truyền giáo không còn được đo bằng cây số, mà bằng những nỗi khổ đau của nhân loại đang gõ cửa các cộng đoàn Kitô giáo: “Đó không còn là vấn đề ra đi đến những vùng đất xa xôi, mà là ở lại, là đón tiếp, là mở rộng vòng tay và con tim với những ai đến với sự mong manh và niềm hy vọng.”
Đức Giáo hoàng đặc biệt nhấn mạnh đến thảm cảnh của người di cư: “Thưa anh chị em, những chiếc thuyền đang mong chờ để nhìn thấy một bến cảng an toàn thì không thể nào, cũng không được phép, để những đôi mắt chứa đầy thống khổ đó bắt gặp sự lạnh lùng của thái độ thờ ơ hay sự kỳ thị.” Trước thách thức này, ngài thúc giục một sự phản ứng của lòng trắc ẩn và tình liên đới, biến người tín hữu thành “một sự hiện diện của niềm an ủi và hy vọng.”
Trong bài suy niệm, Đức Thánh Cha nhắc lại lời của ngôn sứ Kha-ba-cúc và những suy tư của Đức Bênêđictô XVI về sự im lặng của Thiên Chúa trước sự dữ, đồng thời chỉ ra rằng đức tin chính là câu trả lời mở ra con đường cứu độ: “Đức tin, dù chỉ nhỏ bé bằng hạt cải, vẫn chứa đựng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa làm biến đổi lịch sử.”
Đức Thánh Cha trình bày hai cam kết nền tảng cho sứ vụ của Giáo hội: cộng tác truyền giáo — mời gọi các Giáo hội có truyền thống lâu đời để cho mình trở nên phong phú bởi sức sống của các cộng đoàn thuộc Nam bán cầu — và cổ võ ơn gọi truyền giáo mới, đặc biệt tại Châu Âu, hướng đến giới trẻ.
Ngài khẳng định: “Hôm nay, một kỷ nguyên truyền giáo mới bắt đầu trong lịch sử Giáo Hội,” trích lời Thánh Giáo hoàng Phaolô VI và vị tiền nhiệm là Đức Thánh Cha Phanxicô, để nhấn mạnh đến tính cấp bách của việc “sống trong trạng thái truyền giáo liên tục.”
Bài giảng kết thúc với phép lành đặc biệt dành cho các nhà truyền giáo, các cộng đoàn địa phương và những người di dân, những người mà Đức Thánh Cha gửi tới thông điệp rõ ràng: “Anh chị em luôn được chào đón. Biển cả và sa mạc mà anh chị em đã vượt qua, trong Kinh Thánh, là những nơi cứu độ. Ước gì anh chị em gặp được dung nhan Thiên Chúa nơi các nhà truyền giáo đón tiếp anh chị em.”
Toàn văn bài giảng
NĂM THÁNH THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO VÀ NĂM THÁNH NGƯỜI DI CƯ
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV
Quảng trường Thánh Phêrô
Chúa Nhật XXVII Thường Niên, ngày 5 tháng Mười năm 2025
______________________________
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, chúng ta cử hành Năm Thánh của Thế giới Truyền giáo và Người Di cư. Đây là một dịp tốt đẹp để khơi dậy trong chúng ta ý thức về ơn gọi truyền giáo, được sinh ra từ ước muốn mang niềm vui và sự an ủi của Tin Mừng đến với tất cả mọi người, nhất là những người đang sống một lịch sử đầy khó khăn và thương tổn. Tôi nghĩ cách riêng đến những anh chị em di cư của chúng ta, những người đã phải rời bỏ quê hương, thường là phải bỏ lại những người thân yêu, trải qua những đêm tối sợ hãi và cô đơn, và chịu sự kỳ thị và bạo lực.
Chúng ta hiện diện nơi đây, trước mộ của Thánh Tông đồ Phêrô, để mỗi người chúng ta nói lên với niềm hân hoan rằng: toàn thể Giáo hội là truyền giáo, và điều thật cấp bách — như Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định — rằng Giáo hội “phải ra đi để loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, ở mọi nơi, trong mọi dịp, không trì hoãn, không miễn cưỡng, và không sợ hãi” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 23).
Chính Thánh Thần thôi thúc chúng ta tiếp nối công trình của Đức Kitô nơi các vùng ngoại vi của thế giới, nhiều khi mang dấu ấn của chiến tranh, bất công và đau khổ. Trước những cảnh tượng tối tăm này, trong lịch sử tiếng kêu đã rất thường xuyên thấu lên tới Thiên Chúa nay lại vang lên: Lạy Chúa, sao Chúa không ra tay? Sao Người dường như vắng mặt? Tiếng kêu đau đớn này là một hình thức cầu nguyện thấm đẫm toàn bộ Thánh Kinh, và sáng nay chúng ta nghe lại từ ngôn sứ Khabacuc: “Lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe? Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài. Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn?” (Kb 1:2-3).
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, khi suy tư về những câu hỏi này trong chuyến thăm lịch sử tới trại Auschwitz, trở lại chủ đề này trong một bài giáo lý, ngài nói rằng: “Thiên Chúa im lặng, và sự im lặng này xé nát linh hồn người cầu nguyện, người không ngừng kêu cầu, chẳng tìm được câu trả lời. […] Thiên Chúa dường như quá xa xôi, thật quên lãng, quá vắng bóng” (Bài Giáo lý, ngày 14 tháng Chín năm 2011).
Nhưng câu trả lời của Chúa mở ra cho chúng ta niềm hy vọng. Trong khi ngôn sứ kêu than về sức mạnh không tránh được của sự dữ dường như đang thắng thế, thì Thiên Chúa loan báo rằng tất cả những điều này có một thời hạn nhất định, có hồi kết sau cùng, bởi vì ơn cứu độ sẽ đến và không trì hoãn: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (Kb 2:4).
Do đó, có một sự sống, một cơ hội mới của sự sống và ơn cứu độ đến từ đức tin, bởi đức tin không chỉ giúp chúng ta chống lại sự dữ bằng cách kiên trì trong việc thiện, mà còn biến đổi đời sống của chúng ta để làm cho nó trở thành khí cụ của ơn cứu độ mà Thiên Chúa hằng muốn thực hiện trong thế giới. Và, như Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng, đó là một sức mạnh dịu dàng; đức tin không áp đặt qua các phương tiện quyền lực hoặc theo những cách thức phi thường; một hạt cải là đủ để đạt được những điều tưởng chừng không thể (x. Lc 17:6), bởi vì nó mang trong mình sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa mở ra những con đường cứu độ.
Ơn cứu độ đó được thực hiện khi chúng ta đích thân cam kết và gánh lấy nỗi đau khổ của người lân cận với lòng trắc ẩn của Tin Mừng; ơn cứu độ ấy phát triển cách âm thầm và dường như không hiệu quả trong những cử chỉ và lời nói thường ngày, giống như hạt giống nhỏ bé mà Chúa Giêsu nói đến; đó là ơn cứu độ dần lớn lên khi chúng ta trở thành “những đầy tớ vô dụng,” nghĩa là khi chúng ta dấn thân phục vụ Tin Mừng và anh chị em của mình, không phải để theo đuổi lợi ích riêng, nhưng chỉ nhằm mang tình yêu của Chúa đến cho thế giới.
Với niềm tin tưởng này, chúng ta được mời gọi canh tân trong lòng ngọn lửa của ơn gọi truyền giáo. Như Thánh Phaolô VI khẳng định, “Bổn phận của chúng ta là loan báo Tin Mừng trong thời kỳ phi thường này của lịch sử nhân loại, một thời điểm, chắc chắn, chưa từng có, trong đó, những đỉnh cao của tiến bộ chưa từng đạt được lại đi song song với những vực sâu của sự hoang mang và tuyệt vọng cũng chưa từng có” (Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo, ngày 25 tháng Sáu năm 1971).
Thưa anh chị em, hôm nay, một kỷ nguyên truyền giáo mới đang mở ra trong lịch sử Giáo Hội.
Nếu trong một thời gian dài, chúng ta đã gắn liền truyền giáo với việc “ra đi,” với việc đến những vùng đất xa xôi chưa biết đến Tin Mừng, hoặc đang trong tình trạng nghèo đói, thì ngày nay, biên giới truyền giáo không còn thuộc địa lý nữa, bởi vì sự nghèo đói, đau khổ, và khát khao một niềm hy vọng lớn lao hơn đang đến với chúng ta. Điều này được minh chứng qua câu chuyện của rất nhiều anh chị em di dân của chúng ta: bi kịch họ chạy trốn khỏi bạo lực, nỗi đau khổ đồng hành với họ, nỗi sợ hãi không thể vượt qua, hiểm nguy của những chuyến hành trình dọc theo các bờ biển, tiếng kêu thống thiết và tuyệt vọng của họ. Thưa anh chị em, những chiếc thuyền đang mong chờ để nhìn thấy một bến cảng an toàn thì không thể nào, cũng không được phép, để những đôi mắt chứa đầy thống khổ đó bắt gặp sự lạnh lùng của thái độ thờ ơ hay sự kỳ thị.
Vấn đề không còn là “ra đi,” nhưng là “ở lại” để rao giảng Đức Kitô qua sự đón tiếp, lòng trắc ẩn, và tình liên đới. Ở lại mà không ẩn náu trong sự tiện nghi của chủ nghĩa cá nhân, ở lại để nhìn vào khuôn mặt của những người đến từ những miền đất xa xôi và đau khổ, ở lại để mở rộng vòng tay và trái tim với họ, để chào đón họ như những người anh chị em, để trở thành sự hiện diện của niềm an ủi và niềm hy vọng cho họ.
Có rất nhiều nhà truyền giáo, nam và nữ, nhưng cũng có những tín hữu và người thiện chí, đang làm việc để phục vụ người di cư và thúc đẩy một nền văn hóa huynh đệ mới về vấn đề di cư, vượt lên trên những định kiến và thành kiến. Nhưng sự phục vụ cao quý này thách đố mỗi người chúng ta, trong phạm vi khả năng của mình. Đây là lúc — như Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định — để tất cả chúng ta phải đặt mình trong “trạng thái truyền giáo thường trực” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 25).
Tất cả điều này đòi hỏi ít nhất hai cam kết truyền giáo lớn: hợp thông truyền giáo và ơn gọi truyền giáo.
Trước hết, tôi mời gọi anh chị em cổ võ sự hiệp thông truyền giáo giữa các Giáo Hội. Ở những cộng đoàn có truyền thống Kitô giáo lâu đời, đặc biệt tại phương Tây, sự hiện diện của nhiều anh chị em đến từ phương Nam của thế giới cần được đón nhận như một cơ hội trao đổi phong phú, giúp canh tân dung mạo của Giáo Hội và truyền cảm hứng cho một Kitô giáo cởi mở hơn, sống động và năng động hơn. Đồng thời, mỗi nhà truyền giáo khi ra đi đến miền đất mới được mời gọi cư ngụ giữa nền văn hóa mình gặp gỡ với sự tông trọng thiêng liêng, hướng tất cả những gì tốt đẹp và cao quý mà họ tìm thấy về sự thiện, và mang đến cho họ lời ngôn sứ của Tin Mừng.
Tôi cũng muốn nhắc lại vẻ đẹp và tầm quan trọng của các ơn gọi truyền giáo. Tôi đặc biệt nói với Giáo hội Châu Âu. Ngày nay, cần có một động lực truyền giáo mới, từ giáo dân, tu sĩ, và linh mục dâng hiến sự phục vụ của họ ở các vùng đất truyền giáo, từ những đề xuất và kinh nghiệm ơn gọi mới có khả năng khơi dậy ước muốn này, đặc biệt nơi người trẻ.
Anh chị em thân mến, tôi trìu mến ban phép lành đến các giáo sĩ địa phương thuộc các Giáo hội, đến các nhà truyền giáo, và những người đang phân định ơn gọi của mình. Với anh chị em di dân, tôi nói rằng: anh chị em luôn được chào đón. Biển cả và sa mạc mà anh chị em đã vượt qua, trong Kinh Thánh, là những nơi của ơn cứu độ. Ước gì anh chị em gặp được dung nhan Thiên Chúa nơi các nhà truyền giáo đón tiếp anh chị em.
Tôi phó thác tất cả mọi người cho sự chuyển cầu của Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên của Con Mẹ, người đã vội vã lên đường đến miền núi Giuđê, mang Chúa Giêsu trong lòng và đặt mình phục vụ bà Êlisabét. Xin Mẹ nâng đỡ chúng ta, để mỗi người chúng ta có thể trở thành một cộng tác viên trong Vương quốc của Đức Kitô, một Vương quốc của tình yêu, công lý, và hòa bình.