
Ts. Trần Mỹ Duyệt
Trong cuộc hành hương Năm Thánh vừa qua, tôi đã có dịp đến thăm Assisi, quê hương của Thánh Phanxicô. Thật là cảm động khi nhìn lại những nơi ngài đã sinh ra, đã sống, và đã qua đời. Nhưng điều làm tôi suy nghĩ nhiều hơn hết là tinh thần của Phanxicô được thể hiện qua lời Kinh Hòa Bình. Đây không phải là kim chỉ nam cho đời sống thánh thiện của một vị thánh, mà còn là lời khuyên cần thiết cho bất cứ ai nếu muốn bước đi theo Chúa với tinh thần khó nghèo, từ bỏ, phó thác, và hòa bình. Dưới cái nhìn tâm lý trị liệu, những lời kinh này còn là một bài học ứng dụng cho những ai đang mang trong mình những mối hận thù, ghen ghét, bực tức, khó chịu; những ai đang phải đau khổ vì bị hiểu lầm, xúc phạm, coi thường, và đối xử bất công.
Không gì làm mất bình an, mất hạnh phúc, và mất tình thân hữu cho bằng để lòng giận hờn, cay đắng và thù ghét. Nó có thể dẫn đến những bất ổn về tâm lý hoặc tình trạng tâm bệnh. Và Kinh Hòa Bình hay lời nguyện Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi được coi như một trong những phương thuốc trị liệu rất hữu hiệu.
Thông thường một người mà tâm hồn thiếu bình an thường dẫn đến tâm trạng lo lắng (anxiety), hốt hoảng, hoang mang, nghi ngờ hoặc trầm cảm (depression). Tình trạng này càng kéo dài càng dễ dẫn đến những triệu chứng tâm bệnh.
Ngoài những triệu chứng như bứt rứt, khó chịu, mất ăn, mất ngủ, nghi ngờ, chán nản, và khép kín. Sống thiếu sự bình an cũng dễ đi vào tình trạng tự kỷ, ảo tưởng, hay ảo giác. Trong một số trường hợp còn gây ra những ý tưởng chán đời và tự tử. Phần lớn những cái chết vì tự tử là do con người cảm thấy cùng đường, bí tắc, thất vọng về chính mình và về cuộc đời. Trên thế giới hiện nay có hơn 300 triệu người đang cùng chia sẻ những hội chứng ảnh hưởng đến tâm lý và làm suy sụp tinh thần cũng như thể xác. Thánh Kinh đã nói về sự buồn nản, giận hờn, và một tâm hồn thiếu sự bình an, vui tươi như sau: “Tâm hồn vui tươi là liều thuốc bổ, tâm trí rã rời làm khô xương cốt” (Cách Ngôn 17:22).
Để chữa trị những triệu chứng bất ổn về tâm lý hoặc tâm thần, người ta thường dùng thuốc hoặc tâm lý. Tuy nhiên khi khả năng thuốc không còn ảnh hưởng nữa, người ta phải phối hợp giữa thuốc và tâm lý trị liệu. Nhưng ngoài hai cách trị liệu vừa kể, còn có một phương pháp trị liệu khác nữa đó là tâm linh trị liệu.
Gần đây trong ngành y khoa, môn tâm linh trị liệu đã bắt đầu được giảng dạy. Những kết quả khảo cứu đã cho thấy việc phối hợp giữa tâm lý và tâm linh trị liệu, giữa y khoa và tâm linh trị liệu, hoặc vừa tâm lý, vừa tâm linh, và vừa y khoa đã đem lại những kết quả rất tốt trong việc chữa trị các bệnh nhân không những chỉ thuần túy về thể lý, mà còn cả về tâm lý và tâm bệnh nữa. Trong những lần thực hiện phép lạ chữa cho người này, người khác, chính Đức Kitô đã từng đề cập đến đức tin hay khả năng tâm linh trong việc chữa trị các bệnh nhân này. Ngài coi đó như yếu tố quyết định của việc chữa lành. Thí dụ, người thiếu phụ bị bệnh băng huyết lâu năm, bằng một niềm tin vững mạnh, bà đã cố chạm đến gấu áo của Ngài với tin tưởng chắc chắn rằng, chỉ ngần ấy cũng đủ chữa bà khỏi bệnh, và sự việc đã xẩy ra đúng như bà đã tin. Ngài đã phán với bà: “Đức tin con chữa con. Hãy đi bình an và khỏi bệnh” (Marcô 5: 34-35). Thực tế cũng chứng minh rất nhiều người đã được khỏi bệnh nhờ vào lòng tin của họ. Tóm lại, tự trong sâu thẳm của tâm hồn, đức tin chiếm phần quan trọng. Nó có thể biến đổi và chữa lành. Quyền lực của Đấng Tối Cao ảnh hưởng trên tâm lý siêu hình luôn là sức mạnh, nâng đỡ, và giải thoát khi mà tất cả những khả năng con người bị hạn chế.
Cũng trong niềm tin tưởng ấy, Kinh Hòa Bình xuất hiện như một thần dược giúp trị liệu các hội chứng ích kỷ, giận hờn, cay đắng, ghen ghét hoặc câm nín. Hãy nghe những gì vị thánh “hòa bình” đã cầu xin và thực hành để chiếm đoạt, để hoán chuyển những con tim đang bất an, đang giận hờn và thù hận:
Lạy Chúa xin hãy dạy con:
Tìm an ủi người hơn được người ủi an,
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết,
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Một ứng dụng tuyệt vời không chỉ trong khía cạnh tâm linh, khía cạnh đạo đức xã hội, mà còn cho cả khía cạnh tâm lý nữa. Triết lý sống hàm chứa trong Kinh Hòa Bình là một cái nhìn tích cực và hướng về phía trước, đón bắt những gì mà người khác đang cần để sẵn sàng đáp trả. Một thực tại trước mắt mà không nhìn lại quá khứ. “Ngay bây giờ và trong lúc này” cũng là một nguyên tắc ứng dụng để giúp một người với những thù hận, giận hờn, cay đắng, với những suy nghĩ tiêu cực, và bỏ cuộc trở nên tin tưởng, lạc quan, và dễ dàng tha thứ hơn. Và sự tha thứ phải bắt đầu ngay ở chính mình, tha cho chính con người của mình trước.
“Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Một hình thức tự giải thoát chính mình, tự mình tha cho mình. Trong thực hành, tha cho mình lại là việc quan trọng và cần thiết để ta có thể tha cho người khác. Khi giận hờn, nghị kỵ, hoặc bất hòa với một ai đó, thì tự trong tâm hồn ta đang có một sự mâu thuẫn với chính mình, đòi hỏi ta phải tha cho mình. Cần phải giải hòa với chính mình trước để có đủ bằng an, sáng suốt, bình tĩnh, quảng đại mà tha cho người khác: “Tìm an ủi người hơn được người ủi an.” Nếu mình cần người ủi an, sao lại ích kỷ mà chỉ nghĩ đến mình. Người đối diện cũng đang cần điều này từ nơi mình.
“Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết.” Mình cần được hiểu biết từ người đối diện, người đối diện cũng đang cần được mình hiểu biết. Trong những bất hòa hằng ngày chẳng phải gây ra do sự thiếu hiểu biết từ cả hai phía sao? Nếu chỉ đòi người khác hiểu mình, mà mình không hiểu người khác chẳng hóa ra quá bất công đối với họ sao.
“Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.” Mình muốn được yêu, cần yêu, người khác cũng vậy. Cũng là con tim thịt mềm, ai chẳng có những rung động và cảm thấy hạnh phúc khi được người khác yêu mình. Đây là một bắt đầu tốt nhất để dẫn đến việc hòa giải.
Và mình muốn người khác tha cho mình, sao mình không tha cho người khác. “Chính khi thứ tha là khi được tha thứ”. Tha thứ cho người khác xuất phát từ việc tự tha cho mình. Không cho phép mình giận hờn, thù ghét sẽ đem lại sự bằng an và tạo điều kiện cho người khác cảm nhận được trái tim rung cảm của mình. Một tình cảm chứa chan, một tình yêu tha thứ như vậy sẽ khiến cho những người quanh ta không có lý do gì để từ chối.
Tóm lại, tìm an ủi người, tìm hiểu biết người, tìm yêu mến người là những ứng dụng tích cực chữa lành những bất đồng, bất hòa, hiểu lầm, và thành kiến. Kết quả là những ai thực hành nó sẽ là người nhận được những gì mình đang tìm kiếm, gặp lại bản thân, và được tha thứ trước. Và sự chết đi cho chính mình sẽ đem lại cho người ấy niềm bình an sâu thẳm của tâm hồn.
Như một bài Tâm Lý Trị Liệu. Thực hành Kinh Hòa Bình là hành động ứng dụng trong việc xây dựng sự bình an trong chính tâm hồn mình, và từ sự bình an ấy lan tỏa đến những ai đang kiếm tìm và khao khát sự bình an.