Được sự cho phép của Linh mục Giuse Vũ Thái Hòa, giáo sư Phụng vụ và là tác giả cuốn “40 câu hỏi về Thánh lễ”, Ban Truyền thông sẽ lần lượt đăng các câu hỏi và lời giải đáp cho những vấn đề mà nhiều người vẫn thường thắc mắc về Thánh lễ, nhằm giúp chúng ta hiểu hơn về những cử hành Phụng vụ mà chúng ta đã từng tham dự. Các câu hỏi và giải đáp này sẽ được đăng bằng ba ngôn ngữ: Tiếng Việt, English và Français để các bạn trẻ ở nước ngoài cũng có thể đọc được.
Người ta nói “vô tri bất mộ”. Am hiểu về Thánh lễ sẽ giúp chúng ta không chỉ “đi lễ” hoặc “xem lễ” mà còn tham gia vào các cử hành Phụng vụ cách tích cực, chủ động và linh hoạt hơn. Mong quý độc giả đón đọc và phổ biến rộng rãi cho nhiều người được biết, để kiến thức và niềm tin Công giáo được lan tỏa rộng rãi.
Xin cám ơn và xin Chúa chúc phúc lành cho quý vị!
TIẾNG VIỆT
18. Tại sao đọc kinh Tin Kính?
Trong Thánh lễ, một trong những giây phút liên hệ chặt chẽ với Lời Chúa, đó là lúc đọc kinh Tin Kính hay lời tuyên xưng đức tin. Kinh Tin Kính được đọc trong các lễ chúa nhật và lễ trọng như là sự chấp nhận và đáp lại Lời Chúa mà giáo dân đã nghe trong các bài đọc.
Kinh Tin Kính tóm tắt tất cả các điều căn bản của đức tin Kitô giáo. Đọc kinh Tin Kính là dấu hiệu nhìn nhận niềm tin của mọi Kitô hữu.
Có hai bản Kinh Tin Kính : Kinh Tin Kính các Tông Đồ và Kinh Tin Kính Nixêa.
– Kinh Tin Kính các Tông Đồ, cũng gọi là Biểu Tín các Tông Đồ (Symbole des Apôtres, Symbol of the Apostles), là kinh Tin Kính xưa nhất, có từ thế kỷ thứ II. Bản này tổng hợp các công thức đã có trước đó. Từ thế kỷ thứ VI, bản này có hình thức như chúng ta thấy hiện nay. Đây là bản tuyên xưng những tín điều chính yếu nhất khi chịu phép Rửa.
– Kinh Tin Kính Nixêa do Công Đồng Nixêa (Nicée) chấp thuận vào năm 325 nhằm đối phó với lạc thuyết arianô chối bỏ thần tính của Chúa Giêsu Kitô. Sau đó bản này được Công Đồng Constantinople bổ túc vào năm 381 nhằm để xác quyết thần tính của Chúa Thánh Thần do nhiều bè rối chối bỏ, vì thế đôi khi người ta gọi bản này là kinh Tin Kính của các Công Đồng Nixêa-Constantinople. Giáo dân Việt Nam thường đọc bản này trong thánh lễ.
ENGLISH
18. Why do we say the Creed?
At Mass, one among the most closely related moments to the Word of God is the saying of the Creed or the profession of faith. The Creed is recited in Sunday Masses and solemnities as acceptance and response to the Word of God which the faithful have heard in the readings.
The Creed summarizes all the fundamental points of the Christian faith. Reciting the Creed is a sign of recognition of the faith of every Christian.
There are two texts of the Creed: The Apostles’ Creed and the Nicene Creed.
- The Apostles’ Creed is the oldest Creed. It has been existing since the second century. This text summarizes the pre-existing formulas. Since the sixth century, this text has retained the form as we see now. This is a profession of the most essential creeds when receiving Baptism.
- The Nicene Creed was adopted by the Nicene Council in 325 to respond to the heresy of Aryanism, which denied that Jesus Christ was fully divine. After that, this text was supplemented by the Council of Constantinople in 381 in order to affirm the divinity of the Holy Spirit which many heresies denied, that is why this text is sometimes called the Creed of Nicene-Constantinople Councils. The Vietnamese faithful often recite this version in Mass.
FRANÇAIS
18. Pourquoi récite-t-on le Credo (Je crois en Dieu)?
Durant la messe, un des moments les plus explicites et les plus forts d’adhésion à la Parole de Dieu est la profession de foi ou la proclamation du Symbole de foi (Symbole des Apôtres ou Symbole de Nicée-Constantinople).
Le Credo est la réponse des fidèles à la Parole de Dieu qu’ils ont entendue dans les lectures. Il reprend tous les points essentiels de la foi chrétienne. Réciter le Credo est un signe de reconnaissance de la foi de tous les chrétiens.
Le Credo existe sous deux formes:
- Le Symbole des apôtres est le plus ancien; lui-même synthèse de formulaires antérieurs, il a vu le jour au IIe siècle et a pris sa forme actuelle au VIe siècle. C’est avant tout une profession de foi baptismale, ramenée à l’essentiel.
- Le Symbole de Nicée a été adopté par le concile de Nicée qui s’est tenu en 325 en vue de réfuter l’hérésie arienne niant la divinité de Jésus Christ. Quelques temps plus tard, le Symbole de Nicée fut complété par le concile de Constantinople (en 381) pour affirmer la divinité du Saint-Esprit niée par diverses hérésies; d’où le nom complet qu’on lui donne de Symbole de Nicée-Constantinople.