Chương bảy: VỊ THÁNH NHỎ
Cha tuyên uý đã biết phải làm gì rồi. Ngài biết sơ tập sinh trẻ rất khao khát được Rước Lễ, và theo ý kiến ngài, phép lạ không gì hơn là nói lên rằng : “Đã đến thời giờ cho cô bé được thoả lòng”. Vì thế, vị linh mục tốt lành kính cẩn tới gần Imelda, đón Mình Thánh đặt trên đĩa thánh vàng và cho cô rước lễ lần đầu.
Đó là biến cố vĩ đại nhất chưa từng xảy ra trong đan viện từ trước tới nay. Hơn một giờ đồng hồ trôi các nữ tu đều quì tạ ơn Chúa chung quanh sơ tập sinh nhỏ. Sau đó, Mẹ Bề trên ra hiệu cho ai nấy trở về với bổn phận của mình. Mẹ Giáo Tập lo lắng : “Còn Imelda sơ… sơ cũng rời bỏ nhà nguyện chứ ?”. Mẹ Bề trên lắc đầu : “Dạ không, hãy để sơ bé ở lại. Sơ ấy đã chờ đợi quá lâu để có ngày hôm nay. Sơ bé có nhiều điều phải nói với Chúa Giêsu Thánh Thể”. Các nữ tu lần lượt rời bỏ nguyện đường sau khi đã liếc nhìn cô bé Imelda đang ở giữa họ. Tất cả đều cảm động sâu xa. Imelda là một cô bé rất xinh đẹp, và bây giờ cô càng trở nên xinh đẹp không thể tả. Sơ giống Thiên thần hơn là một cô gái nhỏ, một Thiên thần phản ánh tất cả vẻ đẹp rực rỡ của Thiên đàng trong đôi mắt cô.
Mẹ Bề trên thầm nghĩ : “Đó là vì Chúa đang ở trong sơ”. Khi Mẹ Bề trên quì gối nơi chỗ riêng trong căn phòng mình, ý nghĩa về phép Thánh Thể trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Đó là một đặc ân lớn nhất thế giới. Một bảo chứng tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại, nếu ai muốn chứng minh.
Mẹ tự nghĩ : “Chúa đã ban cho chúng ta món quà vô giá này vào Thứ Năm Tuần Thánh. Người biết Người sẽ hiến dâng cuộc sống của Người để cứu chuộc kẻ có tội, nên trong bữa Tiệc ly, Người quyết định một phương thế cứu chuộc nhân loại và phương thức này sẽ mãi mãi còn được ghi dấu. Người đã đổi bánh rượu thường nên Mình Máu Thánh Người và nói các môn đệ hãy nhận lấy để ăn và uống. Rồi Người ban cho họ quyền lực để thực hiện lại phương thức này. Từ đó, chúng ta có thánh lễ và Thánh Thể”.
Mẹ Giáo tập cũng nghĩ về bí tích Thánh Thể như vậy. Mẹ nói : “Chúng ta biết mình cần phải ăn mỗi ngày mới có thể sống. Nếu không, thân xác chúng ta sẽ trở nên yếu nhược và chết. Nhưng linh hồn thì sao ? Chúng ta có nghĩ đến việc nuôi dưỡng bằng của ăn tuyệt vời mà Chúa đã ban hay không ?”.
Khi nghĩ đến điều này, một thoáng đăm chiêu hiện lên trên nét mặt vị nữ tu khả ái. Đáng tiếc thay Luật Giáo Hội (lúc đó) không ban phép Rước Lễ thường xuyên ! Chắc chắn nếu các linh hồn có thể đến bàn tiệc thánh mỗi tuần một lần, ngay cả hằng ngày, họ sẽ dễ dàng nhận biết Chúa hơn và yêu mến Chúa nhiều hơn. Họ có thể trở nên thánh ngay cả trong thời gian ngắn, và các trẻ em phải được phép đến dự nữa, vì linh hồn của chúng cũng có nhu cầu như linh hồn các người lớn. Lạy Chúa ! Xin hãy làm cho ngày đó đến mau chóng để các trẻ em nam nữ trên thế giới có thể đến với Chúa khi chúng còn quá nhỏ.
Thỉnh thoảng các nữ tu trở lại nguyện đường để nhìn ngắm sơ tập sinh nhỏ vẫn còn đang say sưa cầu nguyện. Dường như sơ không cử động từ lúc xảy ra phép lạ vĩ đại này. Sơ vẫn quì ngay chính chỗ sơ dự thánh lễ sáng nay.
Có tiếng thì thầm của một nữ tu với giọng kinh ngạc : “Cô bé giống như một bức tượng trắng nhỏ. Tôi… tôi chưa từng thấy bức tượng nào đẹp như thế”. Một giọng khác chêm vào cách lo lắng : “Đúng, nhưng sơ không nên quì lâu đến thế. Có lẽ chúng ta báo sơ biết”. Người khác nữa có ý kiến : “Không, đừng quấy rầy sơ. Làm thế thì không đúng với biến cố vĩ đại sáng nay”.
Các nữ tu rất được thoả lòng là chốc chốc họ lại đến viếng Chúa tại nguyện đường, liếc nhìn sơ bé Imelda, và chiêm ngưỡng niềm an bình rực rỡ trên gương mặt sơ còn ở tư thế ngẩng cao lên trời. Dường như sơ vẫn đang nhìn Bánh Thánh lơ lửng trên không và đợi chờ để được đón vào nhà Tạm thân xác nhân loại. Khi mọi người trong cộng đoàn nhìn ngắm sơ tập sinh của họ, họ nhớ lại lời sơ : “Làm sao một người được rước Chúa mà không chết đi vì vui sướng ?”.
Imelda cũng nói nhiều điều khác nữa. Bằng lời nói đơn sơ ngây thơ của một cô bé, cô đã nói với các nữ tu rằng bí tích Thánh Thể giống như một phương thuốc thần diệu. Nó làm linh hồn trở nên cường tráng để chống lại các cám dỗ. Nó đem lại hi vọng cho người lo âu và yên ủi kẻ yếu nhược. Nó cũng là cơ hội để hiểu biết Chúa nhiều hơn. Cô bé nói : “Chúng ta chỉ có thể yêu cái chúng ta hiểu, vì thế chúng ta phải làm thế nào, làm bao nhiêu có thể làm để hiểu biết Chúa hơn. Lúc đó chúng ta sẽ dễ yêu mến Người và dễ thi hành ý Chúa hơn”.
Mẹ Bề trên nhớ lại những lời này khi Mẹ trở lại nguyện đường lần nữa, Imelda vẫn đang quì cầu nguyện, nhưng lúc này xem ra cô bé có dáng hơi mệt. Mẹ thầm nghĩ : “Cô bé mệt là vì quì quá lầu rồi, có lẽ ta sẽ đến và nói cho cô bé rằng đã đến giờ phải rời nhà nguyện”. Khi Mẹ tới gần nơi xảy ra phép lạ, Mẹ giơ cánh tay nhẹ nhàng, khe khẽ nói : “Sơ Imelda ơi, đi với mẹ nào con ơi. Con cầu nguyện đã đủ rồi”.
Nhưng không có tiếng trả lời, bất chợt Mẹ Bề trên cả thấy một nỗi đau như lưỡi dao đâm. Khuôn mặt của Imelda nhợt nhạt quá. Xem như… Mẹ kêu lên cách lo lắng : “Sơ Imelda ! Sơ Imelda ! Nhìn Mẹ đây”. Lần nữa, không có tiếng trả lời. Lúc này Mẹ Bề trên hoàn toàn hoảng hốt, và cầm lấy hai vai sơ tập sinh nhỏ. Lập tức, cô bé ngã vào vòng tay của Mẹ. Cô bé đã chết ! Mẹ Bề trên khóc khi ôm xác cô bé : “Lạy Mẹ Thiên Chúa ! Có phải con mơ không ?”.
Nhưng không phải là cơn mơ. Imelda đã chết vài phút sau khi được Rước Lễ Lần Đầu. Ngay khi tin này được loan ra khắp cả vùng, đàn ông đàn bà từ các nông trại, các lều, các gia đình tuôn đến đan viện từng nhóm đông đảo, ngay cả các người ở thành phố Bologna. Ai nấy đều muốn biết sự thật. Đâu là nguyên nhân gây ra cái chết cho Imelda ? Cô bé bị ốm ư ? Hay cô bé bị tai nạn bất ngờ ? Mẹ Bề trên tuyên bố cách hân hoan, tâm hồn Mẹ sáng ngời với niềm vui sướng không chứa đựng một nỗi buồn sầu nào : “Cô bé chết vì sung sướng. Cô bé đã hoàn thành công việc Chúa trao cho cô làm và bây giờ cô rời bỏ chúng ta. Các bạn hữu của chúng tôi, một ngày nào đó, cả thế giới sẽ biết về câu chuyện tuyệt vời này”.
Mẹ Bề trên đã làm hết sức bao nhiêu có thể, trình bày cho mọi người về phép lạ sáng nay. Chúa đã đến với sơ Imelda bằng một cách thức phi thường. Người cho chứng cớ rằng Người không muốn các trẻ em bị xa cách với Người. Người muốn được ngự vào tâm hồn chúng và làm cho chúng trở nên thánh thiện. Một linh mục nào đó hỏi vạn lại : “Nhưng còn luật Hội Thánh thì sao ? Giáo Hội không ban phép cho trẻ em nam nữ được Rước Mình Thánh Chúa. Mẹ biết đấy…” – “Vâng thưa cha, nhưng ngày nào đó sẽ thay đổi. Bé Imelda đã dâng mạng sống cho Chúa để xin ơn này, và Chúa sẽ không từ chối cô bé điều gì hết. Con biết rõ điều này”.
Sự quả quyết của vị nữ tu đáng kính và tốt lành này đã làm cho vị linh mục cảm động. Có lẽ Mẹ Bề trên nói đúng. Biết đâu ngày nào đó các trẻ em sẽ được tiến tới Bàn Tiệc Thánh sớm. Có lẽ điều này cần đợi thời gian. Không là gì, chắc nhiều thế kỷ phải qua đi trước khi những điều tuyệt vời này trở nên có thể được chấp nhận. Thật vậy, sau cùng Giáo Hội đã quyết định để các trẻ em được Rước Chúa khi chúng còn rất trẻ. Vị linh mục suy nghĩ : “Người lớn cũng không được phép chểnh mảng nữa kia. Tuyệt vời biết bao nếu họ được phép Rước Chúa hằng ngày ! Thánh trẻ Imelda, xin hãy ban xuống cho chúng tôi ân huệ này nữa nhé ?”.
Ngay khi ngài to tiếng đọc lời kinh này, một cuộc ồn ào xảy ra bên ngoài và một giọng thì thầm lan rộng cả đám người ở sân đan viện. Thống đốc của miền Bologna và vợ ông đã tới. Vị linh mục buột kêu : “Cha mẹ của cô bé tới. Thưa Mẹ Bề trên, chúng ta sẽ nói với họ thế nào đây ?”.
Cặp mắt của Mẹ Bề trên đượm vẻ lo lắng khi Mẹ nhìn qua chấn song sắt ở hành lang : “Con sẽ nói cho họ biết tất cả sự thật”. Rồi Mẹ thì thầm : “Thưa Cha, xin cha cầu nguyện để họ đón nhận tin này cách hiểu biết”. Tuy nhiên, không có gì phải lo lắng. Sự lạ thứ nhất Imelda đã thực hiện khi lên Thiên đàng, đó là xin Chúa cho cha mẹ mình đón nhận thánh ý Chúa với nhiệt tình và tín thác, trông cậy. Dĩ nhiên cha mẹ của cô bé rất sầu muộn vì mất đi người con vô cùng yêu dấu của họ, nhưng họ không hề chất vấn hay than phiền. Chúa đã có một chương trình tuyệt diệu và nó được ấp ủ nơi người con nhỏ đáng yêu quí vô cùng của họ. Một ngày nào đó, họ sẽ hiểu chương trình đã được hoạch định.
Đôi mắt của bà Donna Castora vẫn khô lệ, và rất bình tĩnh, bà hỏi : “Chúng con có thể tới viếng xác cháu không ?”. Mẹ Bề trên trả lời : “Dĩ nhiên rồi, thưa phu nhân, xác cô bé được đặt nằm ở nguyện đường của các nữ tu. Bà có thể thấy cháu nếu bà đi vào lối cổng và quì cạnh ngay hàng chấn song sắt”. Vị nữ tu cúi chào và chuẩn bị lui ra thì Thống đốc đưa tay ngăn lại, ông hỏi : “Đứa bé không… không đau khổ phải không, thưa Mẹ Bề trên ? Cháu qua đời không bị đau đớn chứ ?”. Mẹ Bề trên mỉm cười : “Đó là một cái chết an bình đến nỗi không ai đoán được điều đó. Sơ Imelda quì ở chỗ quì như thường lệ… mỉm cười sung sướng khi được Rước lễ lần đầu… Ôi ! Không lời nào có thể diễn tả được cô bé đã về với Chúa như thế nào. Hãy đi và nhìn cô bé và quí ngài sẽ hiểu điều tôi nói”.
Thống đốc và phu nhân chào Mẹ Bề trên và tìm đường tới phía nhà thờ dành cho cộng đoàn. Bất ngờ một giọng nói khe khẽ đầy phấn khởi vang lên từ một phía : “Cha mẹ của vị thánh nhỏ đã tới. Xin mọi người hãy tránh đường ra”. Người người nhìn theo, phu nhân Donna Castora đang đi vào lối giữa trong vòng tay chồng bà. Bà không quan tâm tới những lời nói thầm thì hứng khởi và cái liếc nhìn bà cách kính phục. Tâm trí bà chỉ có một tư tưởng là con gái nhỏ của bà đã chết vì cô ta được cảm nghiệm niềm hạnh phúc vô biên của Chúa. Bà cảm thấy một cái gì tuyệt vời trong yên lặng : “Mọi sự còn giống y như cách đây hai năm khi tôi đem con tới đây. Lần ấy, tôi cảm thấy con tim tôi tan vỡ khi Imelda muốn rời bỏ chúng tôi để dâng mình cho Chúa. Lúc đó, tôi đã hiểu một chân lý : không ai bị mất mát khi họ dâng hiến quà cho Cha trên trời. Món quà nhỏ nhất sẽ được hoàn trả lại to lớn gấp trăm lần. Tôi đã dâng con cho Chúa, và bây giờ, lần thứ hai này, Người hoàn trả cho tôi : một vị thánh”.
Hơn một giờ đồng hồ, cả cha mẹ quì bên chấn song sắt, chiêm ngắm người con gái nhỏ của họ. Cô bé toả niềm vui an bình biết bao, đẹp đẽ chừng nào trong bộ áo dòng Đa Minh bằng len trắng ! Ai đó đã đặt một vòng hoa trắng như tuyết trên đầu cô bé, nhưng hương thơm lan toả trong không khí không phát ra từ những cánh hoa này. Mùi hương ngọt ngào ở khắp mọi nơi đã đến từ trời.
Bà Donna Castora sung sướng thầm nghĩ : “Đứa nhỏ thuộc về cả thế giới. Thiên Chúa đã có ý định cho cô bé trở nên một nhà truyền giáo nhỏ để đem nhiều linh hồn về với Chúa. Imelda ! Con ơi”. Đột nhiên có một tiếng suỵt lớn có sức mạnh làm cả cộng đoàn im lặng. Một người đàn ông tóc đã đổi màu đang dùng sức mạnh để đi qua đám đông, và bây giờ đang nài nỉ để được vào đền thánh cầu nguyện bên cạnh chấn song sắt. Sự kiện xảy ra là cha mẹ của Imelda đang ở đó, nhưng họ không ngăn cản. Khi cả đám người đàn ông vội vã chạy đuổi theo để cản giữ ông kia lại, ông đã quay lại họ và phản đối dữ dội. Ông gào thét : “Hãy để tôi vào ! Các người không hiểu rằng tôi có một… một bổn phận phải thi hành sao ?”.
Thấy có sự lộn xộn ở phía sau, bà Donna quay lại. Lập tức mặt bà biến sắc, bà nắm chặt cánh tay chồng. Bà khe khẽ nói cách không thể tin được : “Egano, nhìn kìa !”. Khi bà nói, người đàn ông tóc bạc đã nhào qua đám đông và bước vào khu vực thánh. Thống đốc như đứng không vững, ông kêu lên : “Đó là người đan giỏ, ông đang bước đi mà không cần cây gậy dẫn đường !”.
Người khác mới tới quì phục xuống trước chấn song sắt, rồi nhìn người đàn ông và người đàn bà giàu có này cách sợ hãi. Vài phút khi ông quì trước thi thể cô bé để cầu nguyện, đôi mắt ông dán chặt vào hình dáng cô bé mặc chiếc áo dòng trắng đặt nằm ở nhà nguyện của các nữ tu. Khi ông già tóc hoa râm kia quay mặt lại nhìn họ thì bà Donna Castora và chồng bà mở to mắt kinh ngạc, ông già nói bằng một giọng cảm động : “Tôi đã được trông thấy rồi”.
Nguyên tác: Mary Fabyan Windeatt
Chuyển ngữ: Sr. Teresa Thơm Nguyễn, OP.