Người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu – SN ngày 03.01.2024

0

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

Tin Mừng (Lc 2, 21-24)

21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.

22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”,24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.

(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)

*******

1. Tên Gọi “Giêsu”

Mọi người Ki-tô hữu đều biết rằng, tên gọi “Giê-su” là một tên gọi quyền năng, như Thánh Phao-lô đã viết, trong thư gởi các Tín Hữu Phi-líp-phê:

Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ. 
(Phl 2, 10)

Tuy nhiên, những người không biết ý nghĩa của Tên Gọi này chắc là đông lắm! Vậy, đâu là ý nghĩa của tên gọi “Giê-su”? Và đâu là nguồn gốc của Tên Gọi này?[1]

Trước hết, tên gọi “Giê-su” đến từ sứ thần Gabrien, khi ngài truyền tin cho Đức Maria: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.” (Lc 1, 31). Giữa những tên gọi Thiên Chúa đã có thể chọn, Người đã cố ý chọn Tên Gọi này. Vì thế, khi đã đến thời điểm đặt tên, theo tục lễ của người Do-Thái:

Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ. (Lc 2, 21)

Theo Từ Điển Bách Khoa Công Giáo, từ ngữ “Giê-su” là hình thức La-tinh của từ ngữ Hi-lạp “Iesous”; và từ ngữ “Iesous” lại là sự chuyển thể của từ ngữ Do-Thái Jeshua hay Joshua, hoặc Jehoshua, có nghĩa là “Thiên Chúa là ơn cứu độ”. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo giải thích thêm rằng, “Tên gọi Giê-su, trong tiếng Do-Thái, có nghĩa là ‘Thiên Chúa cứu độ’. Trong biến cố Truyền Tin, sứ thần Gabrien đã truyền đạt tên gọi “Giê-su” dành cho Hài Nhi, vốn vừa diễn tả căn tính và vừa nói lên sứ mạng của Người” (Sách GLGHCG, số 430).

Tên gọi “Giê-su” khá phố biến trong Cựu Ước và vào giai đoạn Đức Giê-su được sinh ra. Tên Gọi này gắn liền với tên gọi “Gio-suê”. Chính vì thế, hình ảnh ông Gio-suê, trong sách Xuất Hành của Cựu Ước, thường được xem như khuôn mặt báo trước của Đức Giê-su, Đấng sẽ dẫn dắt Dân Chúa đến miền Đất Hứa đích thật.

Theo một số tác giả cổ xưa, từ ngữ Hi-lạp “Iesous” gắn liền với động từ iasthai, có nghĩa là chữa lành. Do đó, thật không ngặc nhiên, khi một số Giáo Phụ Hi-lạp đã liên kết tên gọi “Giê-su” với ngữ căn “chữa lành” này. Như vậy, tên gọi “Giê-su” là một tên gọi mạnh mẽ (un nom puissant), một đàng nói lên Đức Giê-su là ai, đằng khác diễn tả đâu là sứ mạng của Người trên trần gian.

“Tên gọi Giê-su có nghĩa là chính tên của Thiên Chúa hiện diện nơi ngôi vị Con của Người, Đấng làm người vì sự cứu độ phổ quát và dứt khoát đối với tội lỗi. “Giê-su” là Tên Gọi thần linh, và chỉ có Tên Gọi này mới mang lại ơn Cứu Độ và từ đây Tên Gọi này có thể được kêu cầu bởi mọi người, vì Người liên kết với tất cả mọi người nhờ Mầu Nhiệm Nhập Thể, đến độ không có tên gọi nào khác dưới gầm trời được ban cho con người, nhờ đó con người có thể được cứu độ (Sách GLGHCG, số 432)[2].

2. Sứ mạng của Đức Giê-su: “Người mang lấy mọi bệnh hoạn tật nguyền của ta”

Sau lễ cắt bì và việc đặt tên, Đức Maria và Thánh Giuse đã dâng tiến Hài Nhi cho Đức Chúa, vào ngày lễ thanh tẩy của các ngài:

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa. (c. 22)

Tên thánh “Giê-su” diễn tả sứ mạng của Người là cứu độ và Người cứu độ loài người chúng ta, bằng cách để cho mình được tiến dâng cho Thiên Chúa, nghĩa là hoàn tất kế hoạch cứu độ của Người, bằng mầu nhiệm Vượt Qua.

Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. (Mc 8, 31)

Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn (Mc 14, 36)

Thập Giá thường được hiểu tách biệt khỏi Mầu Nhiệm Vượt Qua, nên bị giản lược vào những đau khổ (những điều xẩy ra cho mình) hay vào những hi sinh, khổ chế, hãm mình và “đền tội” (những điều tự tạo cho mình), hoặc như là bài “kiểm tra, kiểm nghiệm, trắc nghiệm” sự xứng đáng hay khả năng chịu đựng, chịu “sỉ nhục và khiêm nhường”, để được thưởng “vinh quang” (những điều mình bị áp đặt).

Trong khi đó, Đức Giê-su nói về Thập Giá của mình là mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa: Khi các ông dương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu. (c. 28)

Chính vì thế, theo lời kể của Thánh Sử Mác-cô, Đức Giêsu dạy, chứ không chỉ báo trước; điều này có nghĩa là những gì sẽ xẩy ra cho Ngài không chỉ thuộc bình diện số phận phải đón nhận, hay “phải chịu đau khổ, mới đạt tới vinh quang”, nhưng còn là một lựa chọn, một kế hoạch, một mặc khải, một sự hoàn tất liên quan đến lịch sử cứu độ:

(a) Nơi Thập Giá, Đức Giê-su bày tỏ căn tính đích thật của Người, là “Đấng Hằng Hữu”, vì Người là Sự Thiện tuyệt đối, đối lập với sự dữ và tất cả những gì liên quan đến sự dữ:  bạo lực, tố cáo, lên án… Chúng ta thường hình dung cách dễ dãi Sự Thiện và Sự Dữ “tố cáo” lẫn nhau; trong khi “tố cáo” tự nó là điều dữ, là hành động đặc trưng của Sự Dữ.

Thập Giá cũng mặc khải cách thức Người mạnh hơn sự dữ và sự chết. Sự Thiện chiến thắng Sự Dữ, không chỉ là khi vượt qua sự chết đi vào sự sống, nhưng còn là sự tự do, không để mình rơi vào vòng xoáy của bánh răng cưa Sự Dữ, theo quy luật sòng phẳng “mắt đền mắt, răng đền răng”, “ác giả ác báo”.

(b) Thập Giá là cách thức Đức Ki-tô bày tỏ “TÌNH YÊU ĐẾN CÙNG” (x. Ga 13, 1) dành cho loài người và từng người chúng ta. “Tình yệu đến cùng” của Người tha thứ, chữa lành và giải thoát chúng ta. Như Thánh Phao-lô xác tin: “Không có gì Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8, 39).

(c) Thập Giá không phải là “ngỏ cụt”, chỉ để thưởng phạt hay thi thố khả năng hãm mình, hi sinh, chịu đựng và các “nhân đức”, nhưng là con đường “vượt qua” dẫn đến sự sống. Sự sống mai sau, nhưng đã hiện diện và sinh hoa kết quả đồi dào, ngay trong sự sống này.

Như thế, điều tồi tệ nhất loài người dành cho Đức Giêsu, nhưng lại được Ngài dùng để bày tỏ căn tính đích thật của mình trong tương quan với Thiên Chúa và với con người. Bài đọc trích sách Dân Số, ngang qua hình ảnh Con Rắn, còn giúp chúng ta hiểu sâu rộng hơn về mầu nhiệm “Con Người được giương cao” trên Thập Giá trong tương quan toàn bộ lịch sử cứu độ (x. Ds 21, 4-9)[3].

*  *  *

Đức Giê-su Ki-tô đã hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo “Ý Muốn của Chúa Cha” được thể hiện trong Kinh Thánh. Nhưng Kinh Thánh là gì 

MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
của ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ

KINH THÁNH
(Lc 24)

–  Sáng Tạo: ơn huệ sự sống và tất cả những gì cần cho sự sống.

 

 

 

– Lịch sử: lịch sử của một dân tộc, của những cuộc đời cụ thể, giống như chúng ta: đầy thăng trầm, đau khổ, tội lỗi…


+ Lề Luật.

+ Ngôn Sứ.

+Thánh Vịnh.

– Sau khi ĐKT Chị Đóng Đinh và Phục Sinh giải thích KT cho hai môn đệ trên đường Emmau, “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ
(Lc 24, 30).

TẤM BÁNH
“Người ban BÁNH…” (Tv 136)

– BÁNH đến từ Sáng Tạo (Tv 136, 4-9): “Lạy Chúa, là Chúa cả trời đất. Chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa mầu của ruộng đất…”

– Và từ Lịch Sử (Tv 136, 10-24): “… và công lao của con người…”

 

 

 

 

– Nơi bí tích Thánh Thể và mầu nhiệm VQ, mà chúng ta cử hành mỗi ngày trong Thánh Lễ, bánh hằng ngày trở thành chính Chúa, “Tấm Bánh Hằng Sống” vượt qua sự chết: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh… và nói: “ANH EM HÃY CẦM LẤY, ĐÂY LÀ MÌNH THẦY”.

“CON TIM BỪNG CHÁY”
Mầu nhiệm Vượt Qua tương hợp với Kinh Thánh và Tấm Bánh
Kinh Thánh tương hợp với Tấm Bánh

Mầu nhiệm Vượt Qua tương hợp với Kinh Thánh và với Tấm Bánh; Kinh Thánh tương hợp với Tấm Bánh. Nhận ra những tương hợp này sẽ làm cho “con tim chúng ta bừng cháy” (x. Lc 24, 13-35), vì đụng chạm đến chốn thâm sâu của hữu thể chúng ta (à la profondeur de notre être).

Như thế, tầm mức mầu nhiệm “Đức Ki-tô hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo Ý Muốn của Chúa Cha” không chỉ là làm cho ứng nghiệm một vài câu được lọc lựa trong Kinh Thánh, hay không chỉ dừng lại ở mức độ: thử luyện đau khổ-xứng đáng-ban vinh quang theo qui trình thưởng/phạt hay tương quan “sòng phẳng” của Lề Luật (Lề Luật thì “tốt và thánh”, nhưng bị Sự Dữ sử dụng như phương tiện để phát huy hết sức mạnh hủy diệt !), hoặc ý định thử thách, kiểm chứng hay kiểm nghiệm lòng kiên trì, chịu khổ, chịu thương chịu khó của người đi theo Chúa (Lề Luật thì “tốt và thánh”, tuy nhiên Sự Dữ gieo vào lòng con người thái độ chết chóc: “nghi ngờ, không tin, nên thử để biết”).

Mầu nhiệm “Đức Ki-tô hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua theo Ý Muốn của Chúa Cha” có tầm mức TOÀN BỘ KINH THÁNH.

*  *  *

Cả cuộc đời của Đức Giê-su hướng về mầu nhiệm Vượt Qua. Ba lần vừa loan báo và vừa giảng dạy cho các môn đệ cho thấy rõ chân lí này. Nhưng tương quan giữa cuộc đời của Người và mầu nhiệm Vượt Qua còn hiện diện ở chiều sâu, như chúng ta đã nhận ra khi chiêm ngắm cuộc đời của Người từ “nguồn gốc”. Đặc biệt, mầu nhiệm Vượt Qua được bừng sáng, khi Người đối diện với Lề Luật, và chân lí lề luật “loan báo” Đức Ki-tô chỉ tỏ hiện dưới áng sáng của mầu nhiệm Vượt Qua.

Tại sao cuộc đời của Người hướng về mầu nhiệm Vượt Qua? Đó là bởi vì công trình sáng tạo của Thiên Chúa và lịch sử cứu độ được Thiên Chúa dẫn dắt, mà Kinh Thánh kể lại cho chúng ta, loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và được mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất. Như Thánh Phao-lô tuyên bố (1Cr 15, 3-4).

Vì thế, khi chiêm ngắm mầu nhiệm Vượt Qua, chúng ta sẽ nhận ra Chân Dung Rạng Ngời của chính Thiên Chúa, được tỏ hiện nơi Đức Giê-su chịu thương khó và phục sinh, như chính Tên Gọi của Người đã diễn tả: “Thiên Chúa cứu độ”. Và chính chân dung rạng ngời của Chúa sẽ chinh phục con tim của chúng ta. Bởi lẽ, nếu trong lịch sử cứu độ, khuôn mặt của Thiên Chúa vẫn chưa được tỏ hiện tuyệt đối, vì ánh sáng và bóng tối, sự thiện và sự dữ, sự sống và sự chết lẫn lộn với nhau, thì nơi mầu nhiệm Vượt Qua, hai nguyên lí trái ngược này hoàn toàn tách rời nhau, vì thế, chân dung Thiên Chúa trở nên rạng ngời nhất.

3. Căn tính của Đức Giê-su

a. “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?”

Tên thánh “Giê-su” còn diễn tả chính căn tính của Người: “Thiên Chúa cứu độ”, và căn tính thần linh của Người được bày tỏ cho loài người chúng ta, ngang qua cách thức Người thi hành sứ mạng của Chúa Cha trao phó.

Cùng Thánh Phê-rô, chúng ta công bố: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 16); và cùng với cả Giáo Hội, cho ta tuyên xưng: “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”. (Kinh Tin Kính).

Tuy nhiên, trong tương quan thiết thân với Người, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ, và đến lượt chúng ta hôm nay, vượt qua điều “người ta” nói về Ngài (cho dù là rất đúng, rất hay), và cũng không nói theo công thức có sẵn (cho dù đó là giáo lý, tín lý, là truyền thống), nhưng đích thân công bố Đức Giê-su là ai đối với mình; và khi công bố bằng lời Đức Giê-su là ai đối với mình, mỗi người chúng ta được mời gọi cư ngụ trong câu trả lời của mình, dấn thân trong điều mình nói, đến độ mình và điều mình nói là một; bởi vì câu hỏi của Đức Giê-su không liên quan đến kiến thức chúng ta có về Ngài, nhưng liên quan đến tương quan thuộc về:

– “Thầy là ai đối với con, đối với con tim con, đối với cuộc đời, đối với ơn gọi của con ?”,

– “Khi trả lời Thầy là ai, con có đi theo Thầy không ?

– “Con có sẵn sàng thuộc về Thầy suốt đời không ? Và đi trên con đường Thầy đi không ?

Mỗi người chúng ta được mời gọi tự hỏi: Sau bằng đó năm đi theo Chúa trong một ơn gọi, ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, tôi đã nghe Chúa đặt ra câu hỏi này cho mình chưa ? Và tôi đã trả lời thực sự và dứt khoát cho Chúa chưa? Chúng ta có thể trả lời như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. Nhưng đâu là cách thức Người bày tỏ căn tính thần linh của Người ? Và tôi có đón nhận Người vào trong cuộc đời và nhất là trong những lựa chọn lớn nhỏ của chúng ta không.

b.“Ai muốn đi theo tôi”

Lời tuyên xưng Đức Giêsu Nazareth là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống phải đi đôi với lựa chọn đi theo Ngài, đi con đường của Ngài. Chúng ta thường hiểu, lời này chỉ dành cho những người đi tu. Nhưng Tin Mừng nói cho chúng ta rằng lời mời gọi này của Đức Giêsu dành cho các môn đệ và cả đám đông nữa. Hơn nữa, ơn gọi Kitô hữu là ơn gọi đi theo Đức Giêsu; vì thế lời này của Đức Giêsu ngỏ với mọi người Kitô hữu chúng ta, sống đời tu, sống đời sống gia đình hay sống đời độc thân. Hơn nữa, và đây là lí do quyết định mang lại cho lời và cho ngôi vị của Đức Giêsu giá trị qui chiếu tuyệt đối: tuy đây là lời mời gọi ngỏ với tự do của mỗi người: “Ai muốn đi theo tôi…”, nghĩa là ai không muốn thì thôi, nhưng lời mời này lại liên quan tất yếu đến sự sống, liên quan đến chuyện sống còn, nghĩa là cứu sự sống hay mất sự sống, liên quan đến con đường dẫn đến sự sống, và như thế liên quan đến lòng khao khát sự sống có nơi mỗi người chúng ta:

Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất; nhưng ai chịu mất sự sống của mình vì tôi và vì Tin Mừng, sẽ cứu được.” (Mc 8, 34)

Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.

– Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác. Và đó cũng là con đường của tấm bánh.
– Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
– Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.

Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.

Như thế, lời của Đức Giêsu không còn chỉ là một lời thách đố tận cùng, nhưng còn là lời của Tin Mừng tận cùng; vì Ngài hứa với chúng ta rằng con đường của hạt lúa mì, qui luật muôn đời của sự sống, chính là con đường đạt tới sự sống, con đường nhận lại sự sống từ chính Nguồn Sự Sống là Thiên Chúa hằng sống.

Đó hiển nhiên là lời hứa cho mai sau, nhưng sức mạnh và niềm vui của Sự Sống mới mai sau, đã được chúng ta cảm nghiệm một cách vừa cụ thể vừa sâu xa ngay hôm nay, ngay trong hành vi cho đi vì lòng mến Đức Giêsu, vì niềm say mê Tin Mừng của Ngài. 

[1] The name Jesus, announced to Joseph and Mary through the angels (Matthew 1:21; Luke 1:31), means “Yahweh saves” or “Yahweh is salvation.” Transliterated from Hebrew and Aramaic, the name is Yeshua. This word is a combination of Ya, an abbreviation for Yahweh, the name of Israel’s God (Exodus 3:14); and the verb yasha, meaning “rescue,” “deliver,” or “save.”

The English spelling of the Hebrew Yeshua is Joshua. But when translated from Hebrew into Koine Greek, the original language of the New Testament, the name Yeshua becomes Iēsous. In English, Iēsous becomes Jesus. Thus, Yeshua and, correspondingly, Joshua and Jesus mean “Yahweh saves” or “the Lord is salvation.” (from https://www.gotquestions.org/meaning-name-Jesus.html).

[2] Viết theo https://fr.aleteia.org/2018/01/16/que-signifie-le-nom-de-jesus/

[3] Có thể đọc bài “Đức Giê-su và Con Rắn” (Ds 21, 4-9 và Ga 3, 13-17)

Comments are closed.

phone-icon