Thánh Giuse, Gia Trưởng hay Tu viện trưởng ?

0

THÁNH GIUSE, GIA TRƯỞNG HAY TU VIỆN TRƯỞNG ?

Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần được nghe nói về Thánh Giuse, được chiêm ngưỡng Thánh Nhân qua các bức hoạ và truyện tích, để rồi một lần nào đó trong đời cũng tỏ lòng ngưỡng mộ, kính tôn. Điều đó không có gì lạ, vì không chỉ có chúng ta, mà cả Giáo Hội, qua các triều đại Giáo Hoàng với bao văn kiện viết về Ngài, đã hết lòng ca ngợi tán dương Ngài; các gia đình và nhất là hầu hết các Dòng Tu đều tôn kính Ngài cách đặc biệt. Mối tương quan nào đã đặt Ngài vào một địa vị vinh dự như thế, phải chăng vì Ngài đã trân trọng với từng phút giây trong đời, đã sống hết lòng với từng vai trò trong cuộc sống, và đã hết mình với từng bổn phận được phó trao … nên đã trở thành nhà mô phạm tuyệt vời cho mỗi người, dù sống đời gia đình hay đời hiến dâng?

Nhìn vào đời sống Ngài, chúng ta liên tưởng ngay đến mái nhà Nazareth, nơi đó Thánh nhân đã giữ vai trò rất quan trọng để giữ gìn gia thất an bình. Nhưng vai trò đó là gì, với những chức danh, phận vụ gì: gia trưởng hay tu viện trưởng? Thiết nghĩ, cả hai vai trò đó, Thánh Nhân đã làm rất tốt nên đã được người muôn đời và trong mọi hoàn cảnh đều ngưỡng mộ. Với cương vị là Cha của Chúa Giêsu và là Bạn của Đức Maria, Thánh Giuse quả là mẫu gia trưởng tuyệt vời, là cột trụ vững chắc để bảo vệ và nâng đỡ gia đình qua từng sóng gió và mọi cảnh huống cuộc đời, cách khôn ngoan, bình tĩnh và sáng suốt; và đã trở thành gương mẫu của biết bao gia đình trong mọi thời đại.

Với cương vị là gia trưởng thì đã là hiển nhiên, nhưng giờ đây, chúng ta cùng chắp vá những góp nhặt, những mảnh vụn suy tư, để vẽ vài nét nguệch ngoạc nhưng đầy cung kính về người Cha kính yêu của mình, qua chân dung vị TU VIỆN TRƯỞNG

1. Thánh Giuse với lời Khấn khiết tịnh

Nhìn các bức họa về các Thánh nhân, các hoạ sĩ đã khéo léo cho chúng ta thấy mỗi vị một vẻ, mà mỗi vẻ ấy lại là những gì rất gắn bó, rất gần gũi trong đời thường của các Ngài. Hay có thể nói, chính qua các vật gần gũi, thân thương và có vẻ tầm thường trong cuộc sống ấy, mà các Ngài đã khôn ngoan cộng tác với Ơn Chúa, để biến chúng thành công cụ sắc bén đưa các Ngài đến đỉnh cao danh vọng trong Nước Trời, như Thánh Phêrô với con gà, Thánh Phaolo với thanh gươm, Thánh Martino với cây chổi, Thánh Vincent với ngọn lửa đỏ trên đầu, Thánh Thérèsé với bó hồng tươi thắm… Còn với Thánh Giuse, một bông huệ trắng ngần, hay cái cưa cái đục của nghề thợ mộc cần lao. Bông huệ ấy, làm chúng ta liên tưởng đến nét thanh cao của một tâm hồn dâng hiến?

Ngắm bông huệ nơi tay Thánh Giuse, nó thật đẹp, thật nhẹ nhàng, nhưng quả thật nó được mang cả một đời với bao trăn trở trĩu  nặng. Bông huệ đó gợi cho chúng ta tích truyện về việc chính Thiên Chúa kén chọn Thánh nhân, rồi đưa Ngài đi trong “huyền nhiệm của bông huệ trắng” ấy. Quả là “giữa muôn vàn nam giới, Chúa đã tuyển chọn Ngài”. Hình bóng báo trước nơi các tổ phụ và các vua, đặc biệt là Giuse con Ong Giacop bị bán làm nô lệ bên Ai-cập, trải qua bao thăng trầm mới được đặt làm tể tướng triều đình Ai-cập, coi sóc toàn bộ sản nghiệp của Ai-cập, qua đó đã cứu được bao người thoát nạn, nhất là gia đình mình… Những hình ảnh đó đã tô đậm nét một chân dung mới; để khi thời đã điểm, giờ đã tới, Thiên Chúa thi hành điều Người đã định, là nhờ Thánh Giuse thay Người coi sóc và gìn giữ hai kho báu Nước Trời là Vua các Vua, Chúa các Chúa và Mẹ chí thánh của Người. Thật là một vinh dự lớn lao lòng người chẳng dám nghĩ tới, nhưng đó lại là điều Thiên Chúa định liệu cho những ai Người muốn. Thiết tưởng, vinh quang không đau khổ chỉ là vinh quang hão, thập giá vác không đau chỉ là thập giá bùn… vì vậy, để xứng đáng với sự tuyển lựa đầy yêu thương ấy, Thánh Nhân đã phải trả một giá rất đắt, đánh đổi cả một đời người, với một cuộc sống lặng thầm ngoài sức tưởng tượng. Chỉ mấy câu Kinh Thánh để lại cho chúng ta, càng làm đậm thêm nét âm thầm và khiêm tốn ấy. Nhưng cũng nhờ mấy câu đó, ta thấy được sự giằng co của một tâm hồn muốn sống thanh khiết và công chính.

Trong sách “Tu sĩ với Ba lời Khấn”, Cha Azevedo đã nói:“ Khiết tịnh là Đức Ai, là yêu thương”,  đó là một sự dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, được Thiên Chúa chiếm hữu để rồi tỏ lộ qua cuộc sống của người hiến dâng dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Một tình yêu được lãnh nhận nhưng không, rồi được mời gọi phân phát vô vị lợi… suy nghĩ này có lẽ phần nào giúp ta hiểu đức khiết tịnh của Thánh Giuse. Vì yêu, Ngài đã chọn phần thiệt về mình, âm thầm rút lui trước sự thật quá hiển nhiên về cái bào thai mà người vợ đính ước của mình đang mang nặng, mà không một lời than trách hay hạch hỏi.

Theo Luật Dothái thời xưa, việc đính hôn không những đặt ra nghĩa vụ ràng buộc đôi bên phải đi đến hôn nhân, mà còn mang nghĩa vụ chung thuỷ với nhau nữa. Luật pháp coi hai người đính hôn như là vợ, là chồng. Vì thế, ngoại tình được coi như tội phạm ngay từ lúc đính hôn, chứ không phải từ lúc thành hôn. Đàng khác, trong thời gian đính hôn, luật pháp cũng dự trù hai thủ tục để ly dị : một mang tính công khai, khi người chồng tố cáo vợ ngoại tình, và như vậy, bà phải chịu những hình phạt dành cho tội ngoại tình (xx. Ga 8, 5); thủ tục thứ hai mang tính riêng tư, trước mặt hai nhân chứng, ông trao cho bà tờ tuyên bố từ hôn… ( theo “Thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội Thánh”, Lm. Phan Tấn Thành, Rôma 2007, trang 21). Như vậy, Thánh Giuse đã chọn giải pháp thứ hai để thi hành. Bởi lẽ, dưới ngòi bút của Thánh Mt, Thánh nhân cho ta thấy phần nào Thánh Giuse hiểu được điều gì đang xảy ra với người vợ đính ước của mình, rằng bào thai đó là do Chúa Thánh Thần : “ … trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” ( Mt 1, 18b ). Theo suy luận của các Giáo phụ mà đại diện như Thánh Giêrônimô, Thánh Bênađô và Thánh Tôma Aquinô thời Trung Cổ, thì cho rằng Thánh Giuse đã biết nguyên nhân khác thường của việc cưu mang của Đức Maria, một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu của Đức Maria cũng như của Thánh Giuse…” ( sđd, trang 22 ), vì thế Ngài tính chuyện âm thầm rút lui. ( xx. Mt 1, 19 )

Kinh Thánh Cựu ước còn quan niệm “ người công chính là người đi đứng rập khuôn theo mọi điều răn giới luật của Chúa, vô phương trách cứ về bất cứ điều gì…” (xt. Kn 10, 4 – 20). Hơn nữa, theo các nhà chú giải Kinh Thánh, thì công chính là trả lại cho người khác cái không phải là của mình. Vì thế, khi chọn giải pháp rút lui, không những Thánh nhân vừa tuân hành luật pháp, vừa tôn trọng Maria, mà còn tiến xa hơn, là Thánh nhân không dám chiếm hữu người con không phải là của mình, khi đã biết là do Chúa Thánh Thần. Điều này làm ta dễ hiều hơn khi chiêm ngắm con người đối diện với Thiên Chúa, như Môsê trong bụi gai rực lửa (xx Xh 3, 5), hay như Phêrô trước mẻ cá lạ lùng (xx. Lc 5, 8 ).

Nhưng để đi đến quyết định này, Thánh Giuse đã phải trải qua những giờ trằn trọc, những đêm băn khoăn, những ngày thao thức để tìm cho được chọn lựa đúng, hướng đi đẹp, nên dù đã cân nhắc, chọn lựa và đã quyết định bỏ trốn, tâm hồn Thánh Nhân vẫn luôn muốn biết việc mình làm có được chuẩn nhận, có “vẹn cả đôi đường”??? Vì thế, khi vừa nghe Sứ Thần mời gọi “hãy đón Maria về…”, Giuse lập tức thi hành mà không một lời tranh cãi thiệt hơn. Một lần nữa, Ngài chấp nhận Thánh Ý trong tin tưởng phó thác hoàn toàn. Yêu và yêu cho đến cùng, đã giúp Thánh nhân tô đậm hơn nữa nét đẹp của người công chính và tinh thần của lời khấn khiết tịnh, bởi càng biểu lộ tình yêu thì càng chứng tỏ sự công chính thanh khiết của mình, và ngược lại, càng sống đúng thanh khiết, tình yêu cho đi càng tràn đầy và vô vị lợi.

Quả là một tình yêu siêu vời, với hương thơm ngào ngạt của bông huệ, Thánh nhân đã làm say ngất lòng người, và quyến rũ bao người ở mọi thời, khao khát chiêm ngắm và đi theo.

2. Thánh Giuse với lời Khấn khó nghèo

Nazareth, Galile, thật là những địa danh nghèo hèn, ít ai nghĩ tới và nghĩ tốt về nó. Theo bước chân Philip, khi ông vừa gặp được Đấng Mésia, ông vội đi tìm bạn mình là Nathanael để chia sẻ cho bạn niềm vui mà mình vừa có được. Nhưng ông đã được bạn mình đáp lại niềm vui đó bằng câu nói, như những người đương thời, khi biết nơi xuất phát của Đấng Mésia : “tự Nazareth thì có cái gì hay đâu…”(xx. Ga 1, 46tt ). Nathanael đó – một người được Đấng Mésia gọi là công chính, không có gì quanh quéo, mà lại có tư tưởng như thế, thì thử hỏi những người khác sẽ ra sao? Rồi chính các vị lãnh đạo Do thái cũng đã từng xung khắc với nhau về nơi xuất thân của Đấng Mésia ( xx. Ga 7, 41b.52)… Thế mà Thánh Giuse được gắn kết rất mật thiết ở nơi ấy, với cái lí lịch mà không ai có thể lầm lẫn khi gọi “ người thợ thành Nazareth”. Tên đó không chỉ gắn kết với Thánh Giuse mà còn ưu ái theo Chúa Giêsu trong suốt những năm họat động sau này. Do đó, khi đánh giá việc phi thường Chúa Giêsu đã làm, người Do thái như muốn gạt đi quê hương gốc gác của Chúa, hoặc nếu là người xuất phát từ nơi đó thì không thể có những hành động như thế… và đó là lí do họ vấp ngã, không tin vào Người ( xx. Mt 13, 53-58)

Tuy vậy, đó mới chỉ là cái nghèo sở hữu, còn cái nghèo quyết định, cái nghèo sẽ đưa con người đến chỗ làm con Thiên Chúa, được hưởng chính sản nghiệp của Chúa như chính Chúa đã hứa “ phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó…”, đó chính là cái nghèo được Thiên Chúa chúc phúc, cái nghèo hiện hữu, cái nghèo của việc hoá mình ra không ( xx. Pl 2, 6-8), cho tha nhân trở nên giàu có (xx. 2 Cr 8,9 ). Và chiều sâu của sự khó nghèo này, được bày tỏ trong việc dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha, tất cả những gì thuộc về Người, để chỉ lo thi hành Thánh Ý Người.

Cũng không nên nhầm lẫn giữa người tự nguyện nghèo và người an phận vì không thể làm gì khác hơn, hay không thể đạt được điều mơ ước như danh vọng, địa vị, tiền tài… nên đành chấp nhận nghèo khó. Nơi Thánh Giuse, chắc Ngài đã khám phá ra nét đẹp của đời nghèo khó, được Thiên Chúa ưu ái và lưu tâm đặc biệt, nên Ngài đã an tâm, vui sống trong địa vị Chúa đã đặt. Bởi khi được chọn thay quyền Chúa làm Cha nuôi của Chúa Giêsu, Ngài không đòi cho được giàu sang với một địa vị xứng đáng, tốt đẹp hơn tình trạng hiện có; nhưng là với tất cả lòng yêu mến, tin tưởng và phó thác, Ngài chấp nhận tất cả dự phóng mà Thiên Chúa định liệu và an vui để Cha trên trời dẫn dắt. Rồi khi để Con Thiên Chúa sinh ra giữa đồng không mông quạnh, Thánh Giuse cũng đã lột tả tất cả cuộc đời và sự nghèo khó của mình, nghèo đến độ không có người thân, không ai tiếp đón dù về chính quê quán của mình ( xx. Lc 2, 7b ). Sống trong phận nghèo, như một người nghèo, Ngài cũng tránh xa mọi đặc- xá, ngay cả trong việc thi hành luật, khi dâng Con Thiên Chúa cho chính Thiên Chúa với của lễ của người nghèo, theo đúng luật của tiền nhân ( xx. Xh 13, 2.12.15; Lv 12,8; Lc 2, 22- 24).

Vì thế, khi chiêm ngắm cuộc đời của Thánh Giuse, có lẽ khó có ai dám phủ nhận sự nghèo khó của Thánh nhân, không phải chỉ ở việc sở hữu những của cải vật chất mà còn ở sự hiện hữu của chính mình, ý thức thân phận mình – một tạo vật trước Đấng tạo hoá, nên Ngài đã buông mình cho sự an bài và dẫn dắt khôn ngoan của Thiên Chúa, để chỉ lo – nghĩ – tìm và làm đẹp lòng Thiên Chúa mà thôi.

Lời của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II khi nói về những người sống đời Thánh Hiến, trong TH. Đời sống Thánh hiến, số 18, rằng : “ai đã để cho Chúa chiếm hữu, thì chỉ có thể từ bỏ mọi sự và bước theo Người” (x. Mc 1,16-20; 2,14;10,21), cũng có thể nói về Thánh Giuse, một khi đã hết lòng tin tưởng bước theo tiếng gọi yêu thương của Cha trên trời, Thánh Nhân như đã tuyên xưng Thiên Chúa là gia nghiệp duy nhất. Sống nghèo như thế, Thánh nhân đã tiến tới chân lý Thiên Chúa hứa ban và mặc khải cho những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ  (xx. Lc 10, 21).

3. Thánh Giuse với lời Khấn vâng phục

Như Đức Kitô đến trần gian để thực hiện kế hoạch cứu độ nhân loại theo ý định của Chúa Cha. Ngài đã trải qua biết bao đau khổ để có thể thân thưa với Cha:“ lạy Cha, này con xin đến để thi hành ý Cha” ( xx. Dt 10,5), và Ngài đã phải lặp lại từng lần suốt đời. Thì Cha nuôi của Ngài cũng vậy, tiếng Xin vâng cứ âm thầm lặng lẽ thốt lên từng lần, đầy xác tín và tin yêu, đầy sáng tạo và cương quyết, đầy nhiệt huyết và mau lẹ.

Chỉ vỏn vẹn mấy câu ngắn gọn, được trích trong Kinh Thánh, nguồn mạc khải được linh ứng, Thánh sử Mt đã phác hoạ cho chúng ta chân dung Cha nuôi Chúa Giêsu khá rõ nét, nhưng đơn sơ mộc mạc, và do đó ta có thể thấy sự trọn lành tuyệt vời khi thi hành Ý Cha trong từng biến cố lớn nhỏ. Ngài luôn thao thức, băn khoăn tìm về Thiên Ý, không chỉ trong lúc đứng – khi ngồi, mà còn cả trong khi ngủ – lúc chiêm bao. Và khi dùng kiểu nói đêm tối, ngôn ngữ Kinh Thánh thường cho phép chúng ta hình dung đó là giờ của ma quỉ, của quyền lực tử thần. Thế mà ở nơi Thánh Giuse, ta thường thấy dường như Ngài phải luôn dò dẫm trong đêm tối cô đơn, một mình với tìm kiếm. Giữa đêm tối ấy, Ngài phải chống chọi với tất cả thế lực sự dữ của ý riêng, khó khăn của lề luật, đam mê của tính xác thịt… để tìm cho được con đường phải đi, việc phải làm, tâm phải an, trí phải sáng, thì quả là không dễ chút nào. Người công chính sống bởi Đức Tin, với luật Chúa là đèn soi chân bước, thế mà Ngài vẫn trăn trở, nghi ngờ luật Chúa chăng? Nếu thực sự Ngài nghi ngờ, thì làm sao Ngài được kể là người công chính, và hơn nữa những lo lắng nghi ngờ ấy có nguy cơ bóp chết tiếng nói của Thiên Chúa khi Thiên Chúa lên tiếng, bởi không quen nghe tiếng Chúa nói thì làm sao nhận ra được âm điệu của Ngài (xx. Ga 10,27). Vả lại, nếu vẫn tiếp tục nghi ngờ, thì dù có nhận được ý Chúa cũng khó mà thi hành cách mau mắn, khi không biết trước những gì sẽ xảy ra trong tương lai, và sức mạnh nào có thể giúp giải toả những áp lực đang đè nặng và luôn vây bủa???

Nói Thánh Giuse là con người chiêm niệm. Không sai. Bởi chiêm niệm không có nghĩa là không nói, hay là một nội tâm trống rỗng, trái lại, đó là tấm lòng cởi mở hoàn toàn cho việc nghe và đối thoại với Thánh Y. Thánh nhân luôn sống trong sự đối thoại thân tình với Thiên Chúa, tha thiết yêu mến Chân Lý, để tâm tìm hiểu và chiêm ngắm những mầu nhiệm của Thiên Chúa qua những dấu chỉ của các biến cố, mà Thiên Chúa tỏ lộ và muốn thực hiện qua Ngài. Đó chính là mẫu gương của đời chiêm niệm, với một nội tâm tràn đầy niềm tin yêu, một sự thinh lặng được bao phủ bằng lời cầu nguyện và đời sống tín thác.

Ơ nơi Thánh Giuse, việc nhận ra Thánh Ý thật mau mắn và cùng lúc với việc thi hành, ta chỉ có thể cho đó là do lòng tin tưởng phó thác hoàn toàn của người con, đặt trọn vẹn vào tay Cha giàu lòng từ ái, nên trong khi mình dự định rút lui, thì Ý Chúa lại bảo Thánh nhân tiến tới – rước Bạn mình về; rồi khi bồng Con và Mẹ Người đi lánh nạn giữa đêm khuya, hay khi đưa Con Trẻ và Mẹ Người trở về, Thánh nhân cũng rất sáng suốt nhận định lời mời gọi cộng tác của Thiên Chúa (xx. Mt 2,13-23)…, Thánh Giuse đã mau mắn thi hành, khiêm tốn và vâng phục, không tính toán so đo hay đòi cho được dấu chỉ-phép lạ, chỉ biết âm thầm thi hành những lệnh truyền, dù giữa đêm khua hay nơi đất khách quê người. Thánh nhân đã gác bỏ mọi toan tính của bản thân để chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao, vượt mọi trở ngại để hoàn thành sứ vụ được ủy thác. Ngài đã dám quên đi chính bản thân để cho chương trình của Chúa được thực hiện. Ta có cảm giác Ngài như người nô bộc thật trung thành và cần mẫn, khôn ngoan và thận trọng để thi hành ý chủ, một sự vâng phục không mâu thuẫn với tự do, và mầu nhiệm đức vâng phục là một con đường dần dần dẫn tới tự do chân chính.

Trong đêm tối Đức tin đó, Ngài đã vui mừng thấy và bước đi trong ánh sáng, một thứ ánh sáng mà mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe biết, và lòng Ngài không thể cưỡng lại được; nhưng thay vào đó là việc mau mắn thi hành. Sống trong tâm tình phó thác tin tưởng như thế, Ngài đã nhận được mối phúc mà Chúa đã hứa cho những ai theo Chúa sẽ không phải đi trong tối tăm nhưng sẽ có ánh sáng đem lại sự sống ( xx. Ga 8,12b). Nhờ ánh sáng đó, Ngài đã hân hoan bước đi mà không sợ vấp, không nghĩ đến bản thân với những khó khăn sẽ phải trải qua của việc lội ngược dòng. Đúng như Lời Chúa hứa:“ kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào”( Tv 118, 165)… Và đó chính là con đường dẫn Ngài đến đỉnh cao trên đài vinh quang hôm nay.

Nhờ tuân phục, Thánh Giuse đã được Thiên Chúa vén mở bức màn bí mật, Con Thiên Chúa đã làm người và nằm gọn trong vòng tay yêu thương của Cha Giuse, tình thân hữu giữa Thiên Chúa và con người ngày thêm khăng khít. Điều này, Thánh Giuse đã vượt hẳn nguyên tổ của chúng ta, vì bất tuân đã làm ngưng dòng chảy ân Thánh cho con cái, đồng thời sợi dây ân tình cũng bị cắt ngang. Quả như lời Thánh Toma Aquino đã nói “Ai càng gần gũi với nguồn mạch ân sủng, thì càng nhận được những hiệu quả dồi dào của ân sủng” ( T. Toma, TLTH q.27, a.5,e)

Như vậy, dù chưa bao giờ nghe nói Thánh Giuse đã tuyên hứa những gì, điều đó cũng dễ hiểu, vì đời tu chỉ mới xuất hiên ở những thế kỷ sau này ( IV), nhưng ở nơi Thánh nhân, cả ba Lời Khấn đã luôn tồn tại, và không chỉ tồn tại mà con phát triển cách sung mãn – tròn đầy. Nhờ những nét chấm phá dù ngắn gọn nhưng rất sắc nét nơi Kinh Thánh, giúp chúng ta khám phá ra chân dung tuyệt vời của Cha chúng ta, chân dung ấy độc đáo đến nỗi không Tu viện nào có được ngoài Tu viện Nazareth; và vị Tu viện trưởng tuyệt vời có một không hai trên cõi đời này, đã có uy tín và đẹp lòng Chúa Cha đến đỗi được Chúa Cha trao gởi và ký thác Con một duy nhất của mình và Mẹ Người vào tu. Và có thể nói, với cương vị là Tu viện trưởng, Ngài đã hân hạnh tiếp đón hai Đấng chân tu vào viện tu của mình, để rồi cùng với các thành phần trong Tu viện thi đua thực hành các lời khuyên Phúc Am.

HÃY ĐẾN CÙNG GIUSE

Vua Ai-cập xưa, khi thấy dân chúng đến với mình để xin được sống, Ong đã mời gọi họ đến cùng Giuse – vị tể tướng trong triều Vua khi ấy, người được vua và triều thần hết lòng mến mộ, tin tưởng trao phó toàn bộ tài sản cho Người coi sóc và quản lý.

Thánh Giuse hôm nay cũng được Chúa Cha yêu thương tín nhiệm, trao phó cho Ngài giữ gìn kho tàng An sủng là Con một chí ái của Ngài, ngày nay là Giáo Hội – nhiệm thể của Chúa. Bởi Ngài vừa là mẫu gương sống động về việc trung thành sống theo ân sủng Chúa, vừa là Cha nuôi của nguồn mạch ân sủng”. Vì thế, khi chọn Ngài vào chức vị này, Chúa Cha như muốn mời gọi chúng ta “Hãy đến cùng Giuse”.

Đến cùng Thánh Giuse để được Ngài chỉ dẫn con đường trọn hảo theo chân Chúa,

Đến cùng Thánh Giuse để được Ngài cầu bầu nâng đỡ trên con đường dấn thân phục vụ,

Đến với Thánh Giuse để được Ngài phù trì che chở qua từng cơn sóng gió, bão tố cuộc đời.

Lạy Thánh Cả Giuse, xin cho tất cả những ai chạy đến cùng Ngài, đều cảm nghiệm được sự hiện diện đầy tình yêu Ngài dành cho họ, và cho mỗi chúng con biết noi gương bắt chước các nhân đức của Ngài, để mai sau chúng con cũng được vui mừng cùng Ngài hưởng phúc lộc Chúa hứa ban cho những ai trung thành theo chân Chúa. Amen.

Mừng kính Thánh Giuse, chúng ta không chỉ nhìn lên Ngài như một vị thần, nhưng như một tín hữu đã đi tiên phong trong cuộc lữ hành đức tin. Cúi xin Thánh Cả chỉ cho mỗi người chúng ta biết ý thức vai trò và trách nhiệm của mình trong lòng Giáo Hội và xã hội hôm nay. Mong thay.

Nữ tu Phạm Nhung

Comments are closed.

phone-icon