Meg Hunter-Kilmer
24/08/21
Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những người phải rời bỏ nhà cửa của họ, nhờ sự chuyển cầu của những người nam và nữ thánh thiện này.
Cuộc khủng hoảng ở Afghanistan vẫn tiếp tục. Những người Afghanistan tuyệt vọng đã đu bám vào máy bay khi chúng cất cánh để cố gắng rời khỏi đất nước. Những người khác thì nhấc bổng những đứa con của họ đưa về phía trước, nói lời tạm biệt chúng (có thể là tạm biệt mãi mãi) với hy vọng rằng những đứa con bé bỏng của họ sẽ tìm thấy một ngôi nhà an toàn ở một nơi khác. Khi chúng ta cầu nguyện cho Afghanistan, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện cho những người tị nạn, cả những người chạy phải trốn chạy khỏi căn nhà của họ ngày hôm nay, và những người đã tái định cư từ lâu nhưng vẫn sống với những đau thương và mất mát do việc rời bỏ nhà cửa và văn hóa của họ trong những hoàn cảnh khủng khiếp như vậy. Các vị thánh từng là người tị nạn có thể chuyển cầu cho họ (và cho chúng ta khi chúng ta tìm cách chào đón người khách lạ một cách quảng đại theo mệnh lệnh của Thiên Chúa).
Mẹ Maria và Thánh Giuse là tấm gương cụ thể của những vị thánh từng là người tị nạn. Mặc dù cuộc tháo chạy của các ngài đến Ai Cập vẫn nằm trong đế quốc La Mã (về mặt ngữ nghĩa thì các ngài là “người di tản trong nước” chứ không phải là người tị nạn), các ngài đến một vùng đất không nói tiếng mẹ đẻ, văn hóa của các ngài không được biết đến, và chẳng ai hiểu rõ tôn giáo của các ngài. Các ngài đã bỏ lại nhà cửa và cộng đồng và vội vã lên đường trong đêm, và có thể đã bị ám ảnh bởi ký ức của những đứa trẻ mà Chúa Giêsu đã từng chơi cùng, giờ đây chúng được chôn cất bởi những người cha người mẹ đau khổ. Các ngài chắc chắn sẽ trải qua sự bấp bênh và bất ổn cũng như đau buồn, và cảm giác có tội của người còn sống sót, tất cả đều được cộng thêm vào cú sốc khi phải chạy trốn khỏi nhà của mình. Nếu có vị thánh nào có thể chuyển cầu cho những người tị nạn Afghanistan, thì đó chính là Gia đình Thánh.
Thánh Jeanne-Antide Thouret (1765-1826) là một nữ tu người Pháp khi cuộc Cách mạng nổ ra và nhà cầm quyền yêu cầu chị phải rời bỏ đời sống tu trì, đánh đập chị một cách dã man khi chị từ chối. Sơ Jeanne-Antide mất nhiều tháng để hồi phục, sau đó phải trở về nhà theo lệnh. Nhưng không lâu sau đó, chị bỏ trốn khỏi đất nước, thích sống đời sống tu trì với thân phận một người tị nạn hơn là sống đời thế tục ở Pháp. Chị di chuyển qua lại giữa Đức và Thụy Sĩ trong bốn năm (thường bị đuổi khỏi thị trấn vì thành kiến chống Công giáo) trước khi bí mật trở về Pháp. Ở đó, chị đã thành lập một cộng đoàn tu trì mới và còn tiếp tục cho đến ngày nay.
Thánh Eugene de Mazenod (1782-1861) xuất thân trong một gia đình giàu có người Pháp, nhưng cuộc Cách mạng buộc họ phải tị nạn đến Ý, tại đây họ phải lang thang từ thành phố này sang thành phố khác khi người cha một thời giàu có của Thánh Eugene tìm việc làm. Quân đội Pháp đang tiến đánh truy đuổi những người lưu vong từ Venice đến Naples, sau đó đến Palermo. Hôn nhân của họ bị căng thẳng do khó khăn về tài chính, cha mẹ Thánh Eugene ly hôn, một điều rất bất thường vào thời điểm đó. Mẹ của Eugene coi vụ ly hôn như một cơ hội để chế nhạo người chồng cũ, lấy lại của hồi môn và viết cho ông, “Bây giờ anh không có gì cả.” Thánh Eugene có thể trở lại Pháp (và trở nên giàu có) vào năm 20 tuổi, nhưng nhận thấy rằng cuộc sống lạc thú và đặc quyền của mình trống rỗng. Anh trở thành một linh mục, thành lập Dòng Truyền giáo Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, và cuối cùng được tấn phong giám mục.
Đấng Đáng kính Egidio Bullesi (1905-1929) là một người Ý sinh ra tại Croatia ngày nay. Đệ nhất Thế Chiến khiến quê hương của cậu trở thành vùng chiến sự và cậu bé Egidio 9 tuổi chạy sang Áo-Hungary cùng mẹ và các anh chị em của mình. Gia đình chuyển hết nơi này đến nơi khác, Egidio có rất ít cơ hội đến trường. Họ trở về nhà sau chiến tranh, và Egidio trở thành một công nhân bến tàu, tham gia vào hội Công giáo Tiến hành, và cuối cùng trở thành một giáo lý viên. Mặc dù đã gia nhập hải quân Ý và phục vụ trong hai năm, nhưng Egidio dành phần lớn cuộc đời mình là người phác thảo bản vẽ của xưởng đóng tàu trước khi chết vì bệnh lao ở tuổi 23.
Thánh Rafael Guízar y Valencia (1878-1938) là một linh mục người Mexico (và sau đó là giám mục), người đã trải qua phần lớn cuộc đời linh mục của mình trong cảnh lưu vong. Khi Cách mạng Mexico bùng nổ, ban đầu Cha Guízar đã cố gắng ở lại với người dân của mình, cải trang thành một người bán rong, một bác sĩ và một nhạc sĩ để đem các Bí tích đến cho người dân. Nhưng sau khi bị bắt và suýt bị bắn, Cha Guízar đã bỏ trốn khỏi đất nước. Cha sống tị nạn ở Hoa Kỳ, Guatemala và Cuba, luôn phục vụ mọi người tại bất cứ nơi nào ngài sống. Cuối cùng, ngài được tấn phong làm giám mục và cảm thấy mình phải trở về Mexico, bằng bất cứ giá nào. Cách mạng kết thúc ngay sau đó, nhưng các cuộc nổi dậy của Cristero lại tiếp nối. Đức Giám mục Guízar đã phải sống lưu vong thêm vài năm trước khi phải đối mặt với viên thống đốc, người đã ra giá cho cái đầu của ngài. Nhưng Thống đốc quá ấn tượng với lòng dũng cảm của Đức Giám mục Guízar đến mức ông ta chấp nhận sự có mặt của giám mục trong giáo phận và cuối cùng Đức Giám mục Guízar đã chết vì nguyên nhân tự nhiên.
Đấng Đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (1928-2002) được tấn phong Tổng giám mục Sài Gòn ở tuổi 47 — một tuần trước khi Sài Gòn thất thủ trước lực lượng cộng sản. Vài tháng sau, ngài bị bắt và bị đưa vào trại giam của cộng sản trong 13 năm, trong đó ngài bị biệt giam 9 năm. Trong thời gian đó, Đức Tổng Giám mục Văn Thuận rao giảng cho các cán bộ cai tù, cử hành Thánh Lễ với bàn tay thay cho chén thánh, và lén truyền đi những thông điệp hy vọng cho tín hữu của ngài. Cuối cùng ngài được trả tự do nhưng phải chịu lưu vong trong 11 năm cuối đời. Mặc dù nhiều mối liên hệ của ngài đã giúp ngài dễ dàng chuyển sang cuộc sống lưu vong, nhưng Đức Tổng Giám mục Văn Thuận không bao giờ có thể trở về quê hương của mình.
[Nguồn: aleteia]
[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/8/2021]