Mẹ!
Ngày nào cũng thế, sau giờ kinh tối về, con đều ngắm nhìn di ảnh của Mẹ, gương mặt Mẹ thật hiền dịu nhưng đầy bản lãnh, thật khiêm tốn nhưng rất cương nghị, phản ánh một tâm hồn bình an và khôn ngoan trong Thánh Thần.
Nhớ lại ngày con mới nhập tu 31.5.1966 khi Mẹ mới mãn nhiệm kỳ thứ hai (1960 -1966), con ít có dịp được ở gần Mẹ, chỉ nhìn theo bóng dáng Mẹ âm thầm đi lại trong tu viện. Tuy nhiên, khi con ở Học viện năm thứ nhất 1975, Chúa đã ban cho con một đặc ân là được cùng với nhiều chị em quây quần bên giường bệnh của Mẹ trong những giây phút cuối đời. Mặc dầu lúc đó, con chưa biết những gì Mẹ đã làm để xây dựng Hội dòng; nhưng con thực sự có một ấn tượng rất hạnh phúc khi được chứng kiến giờ chết của một Mẹ cựu Bề trên thánh thiện được nhiều chị em quí mến. Vì thế, con đã kín đáo lấy được chiếc khăn lau giọt nước mắt cuối cùng của Mẹ và cất đi với niềm hy vọng được Mẹ phù hộ cho con.
Rồi theo thời gian, khi được nghe kể và đọc lại lịch sử Hội dòng, con rất tự hào về Mẹ, người nữ tu đã trở nên người môn đệ đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu – “Người Tôi Tớ đau khổ”- luôn chu toàn sứ mạng Cha trao. Vâng, lịch sử đã nói lên rằng Thánh Thần luôn ở cùng Mẹ, Thánh Thần đã tuyển chọn Mẹ và cả cuộc đời thánh hiến của Mẹ luôn sống trong Thánh Thần.
Thánh Thần luôn ở cùng Mẹ
Trước khi Hội Dòng được thành lập, Mẹ đã được Thánh Thần dẫn đưa vào ơn gọi Đa Minh và là một trong những viên đá nền tảng xây dựng nên nếp sống Chị Em Đa Minh Việt Nam để thi hành sứ vụ của Dòng giữa lòng dân tộc.
Vâng, nhìn lại cuộc đời Mẹ, con cảm thấy rằng trong sinh hoạt Nhà Phước, Mẹ đã sống ơn gọi “Đức Ai Hoàn Hảo” là nền tảng của đời thánh hiến qua việc hiến thân phụng sự Chúa và phục vụ các em cô nhi trong Nhà Dục Anh. Rồi với trách nhiệm của một Bà Nhất tại viện mồ côi này trong nhiều năm, Mẹ đã tận tuỵ hy sinh yêu thương các em như chính Chúa Kitô cho đến khi Mẹ được bầu làm Bà Nhất Nhà Phước Bùi Chu 1943. Trong thời điểm này, Mẹ phải đối diện với một thách đố thật sự khó khăn mà chỉ những ai có sức mạnh và ơn khôn ngoan của Thánh Thần mới dám can đảm bảo vệ ơn gọi Đa Minh của mình ngược với ý muốn của Đấng Bản quyền Giáo Phận Bùi Chu lúc bấy giờ. Quả thật, đứng trước ý của Đức Cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn, muốn qui tụ tất cả các nhà phước trong Giáo phận làm thành Dòng Mân Côi đặt trụ sở chính ở Nhà Bùi Chu năm 1946, Mẹ đã cùng với Bà Maria Lương Thị A (Phú Nhai) khiêm tốn trình bày với Đức Cha lập trường và nguyện vọng của bảy nhà phước Đa Minh muốn trung thành với lý tưởng đời tu Đa Minh mà các Cha Thừa Sai Đa minh đã thành lập và không muốn Dòng Ba Đa Minh bị xoá tên trong Gíao phận. Tất cả đã nói lên rằng Chúa Thánh Thần luôn ở cùng Mẹ, hướng dẫn Mẹ tham dự và sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu trong ơn gọi Đa Minh.
Thánh Thần đã tuyển chọn Mẹ
Trong khi Hội Dòng đã được chính thức thành lập từ ngày 30.04.1951, qua những biến cố lịch sử cải tổ lại nếp sống Nhà Phước, đã cho con xác tín rằng, chính Chúa Thánh Thần đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Bề Trên tiên khởi của Hội Dòng sau những thử thách đau thương.
Mẹ ạ, khi đọc lại những trang sử của Hội Dòng trong thời điểm này, con thực sự không cầm được nước mắt về những thách đố Mẹ đã trải qua, những đau khổ Mẹ đã nhận chịu. Con không thể hiểu được những thay đổi trách nhiệm của Mẹ và những hình phạt mà các Bề trên đã quyết định về Mẹ, nếu con không liên tưởng đến mầu nhiệm thập giá mà Chúa muốn Mẹ thể hiện tình yêu, để xây dựng Hội dòng trong thời gian đầu; cần phải có những tảng đá rất kiên vững. Điểm ấn tượng khắc sâu nhất trong tâm khảm của từng chị em chúng con đó là thái độ khiêm tốn vâng phục thánh ý Chúa của Mẹ trước ý muốn của các Bề trên. Con cảm nhận rằng: đối với Mẹ tình yêu là tất cả – khi làm Bà Nhất, Mẹ cùng yêu thương phục vụ hết mình; khi làm quản lý, bếp núc, đồng áng, Mẹ cũng tận tình, quên mình, hết sức chăm sóc cho chị em ăn học để Hội Dòng được phát triển; khi bị tố cáo, khiển trách, bị phạt hôn chân chị em, ngay cả với người giúp việc trong nhà cơm, Mẹ vẫn bình tâm, nhẫn nại, âm thầm chịu đựng tất cả – để thể hiện tình yêu thương như Đức Giêsu đã yêu thương.
Và Thiên Chúa đã đoái nhìn đến tình yêu đích thực và trung kiên của Mẹ; ngay giữa lúc Mẹ bị loại trừ không được tuyển chọn vào khoá tập thứ I, rồi thứ II, Chúa đã thay đổi vị Bề trên để Mẹ có thể được vào Nhà Tập khoá thứ III năm 1953, được tuyên khấn ngày 30.04.1954. Rồi ngay trong năm ấy, Thánh Thần đã tác động nơi các đại biểu trong Đại Hội Đồng thứ I, bầu chọn Mẹ làm Bề Trên Cả Tiên Khởi của Hội Dòng Nữ Đa Minh Việt Nam ngày 06.06.1954; ngay cả khi Mẹ rất yếu không dự Đại Hội Đồng được. Quả thật, đường lối Chúa thật là kỳ diệu, dành cho những ai trung tín tuân giữ giới răn yêu thương của Người!
Mẹ luôn sống trong Thánh Thần
Sau khi Hội Dòng đã được cải tổ theo nếp sống Đa Minh, Mẹ cùng với Ban Tổng Cố Vấn vừa mới nhận trách nhiệm được một tháng, thì hiệp định Genève ký kết giữa Pháp và Việt Nam đã quyết định tạm thời chia đôi đất nước. Lúc đó, Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Mẹ dẫn chị em vào Miền Nam theo với làn sóng di cư đang được các mục tử hướng dẫn. Con tự nhủ: như người hoa tiêu của con thuyền Hội dòng giữa biển động dữ dội, làm sao Mẹ có thể lèo lái cho đúng hướng, nếu Mẹ không thường xuyên sống trong Thánh Thần qua đời sống cầu nguyện?
Giờ đây con đang được sống nơi nhà mẹ Tam Hiệp, với những dẫy nhà xây tương đối nề nếp và kiên vững, với nếp sống tu trì đã có luật pháp định hướng về tinh thần, văn hoá, đào tạo và kinh tế tài chánh, con nghĩ lại thời gian Mẹ và quí Chị Tiền bối mới đặt chân vào Miền Nam, lưu lạc, tha hương, gian nan, khổ cực, thiếu thốn cơm ăn, áo mặc cho mãi đến ngày 27.10.1955 mới định cư tại Tam Hiệp. Tất cả đều phải bắt đầu lại từ cơ sở vật chất đến tinh thần kỷ luật, đời sống thiêng liêng, học hành và thi hành sứ vụ. Những bước chân khai phá của Mẹ và quí Chị trong thời điểm ban đầu ấy thật anh dũng và kiên cường biết bao! Con xác tín rằng Mẹ và các Chị đã bước đi trong Thánh Thần để gieo lời sự sống và tình yêu của Thiên Chúa cho miền đất Nam Việt thân yêu này. Vì khi con mới vào tu, Hội Dòng đã phát triển tương đối ổn định, chị em hiện diện ở đâu cũng mở trường và nâng cao nếp sống văn hoá cho dân địa phương và huấn giáo trong các xứ đạo. Tuy nhiên, trong thời gian này đã xảy ra hai biến cố lớn như khi một số chị em bỏ Dòng để gia nhập vào Hội Dòng Đa Minh mới thành lập năm 1958 hay một vài chị em khác đi lập Hội Dòng mới Na-za-ret năm 1962. Điều này, chắc chắn đã làm cho thập giá trách nhiệm của Mẹ thêm nặng hơn! Quả thật, hành trình xây dựng Hội Dòng trong hai nhiệm kỳ của Mẹ (12 năm; từ 1954 – 1960 – 1966) là một chuỗi dài vất vả hy sinh để đặt nền móng cho tất cả gia sản lịch sử mà chúng con đang có bây giờ.
Mẹ ạ!
Nhìn lại những trách nhiệm trong đời của Mẹ: chăm sóc các em cô nhi, điều hành nhà Dục Anh, nhà phước Bùi Chu và Hội Dòng Nữ Đa Minh Việt Nam, rồi lại trở về chăm sóc các em cô nhi trong những năm cuối đời, con cảm thấy Mẹ đã sống ơn gọi Đức Ai một cách hoàn hảo theo hướng dẫn của Thánh Thần. Nhờ đó, biết bao biến cố thăng trầm của Hội Dòng diễn ra trong đời của Mẹ đều là những dấu ấn của một tình yêu hy sinh đến cùng, tình yêu từ bỏ mình, vác thập giá của người môn đệ Chúa Giêsu. Xin Mẹ giúp con viết tiếp trang sử của Hội Dòng bằng đời sống yêu thương phục vụ theo gương hy sinh của Mẹ. Amen.
Sr. Têrêsa Phạm Thị Oanh