Chính Chúa sẽ liệu

0

Sr. Anna Nguyễn Thị Thảo

Tự thâm tâm sâu xa, con người luôn muốn làm chủ, muốn tự định liệu mọi thứ liên quan đến cuộc đời mình, khát khao nắm giữ vận mệnh, tương lai và hạnh phúc của bản thân thay vì phó thác cuộc đời mình cho một ai đó.

Thế nhưng, tổ phụ Abraham lại chính là một gương mẫu của niềm tin và phó thác, “ông đã tin ngay cả khi không còn gì để tin nên ông được kể là người công chính”. Có lẽ không gì diễn tả được nỗi đau khi đứa con thơ duy nhất, là niềm vui, sự an ủi và hy vọng của tuổi già hỏi một câu xé lòng: “có củi, có lửa đây rồi, còn lễ vật đâu Cha?” Chính Chúa sẽ liệu, là câu trả lời gói trọn tất cả niềm tin và hy vọng của ông nơi Thiên Chúa.

Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Ông Abraham đã tin việc sinh hạ Isaac vào tuổi già chính là sự tiên liệu của Thiên Chúa trên cuộc đời ông, thì việc Chúa muốn ông sát tế Isaac cũng nằm trong sự định liệu của Chúa. Thế nên, dù khổ đau nhưng ông tin tưởng và can đảm thực hiện thánh ý Chúa đến giây phút cuối cùng.

Cũng thế, là một người lữ hành trên đường hy vọng, hành trình đức tin của con được đan dệt bằng những tháng ngày cùng Chúa phiêu lưu, nhiều lúc tin tưởng, phó thác, lắm khi lo lắng, sợ hãi, bao phen chênh chao vô định, nhưng trước hết và trên hết, con vẫn luôn xác tín: Chính Chúa đã liệu, đang liệu và sẽ liệu tất cả mọi sự trong cuộc đời con.

Khởi đầu bằng việc RA ĐI

Từ thành phố Thanh Hóa đi ngược về phía bắc 50km, có một nhà thờ to to. Cạnh nhà thờ to to, có một gia đình nho nhỏ. Trong gia đình nho nhỏ ấy lại có một tình yêu to to. Trong gia đình nho nhỏ 5 thành viên ấy có 2 người nữ: một người phụ nữ quyền lực và một thiếu nữ xinh đẹp. Từ bé, bố vẫn hay gọi: con gái xinh đẹp nhất nhà của bố đâu? Mỗi lần như thế là con thấy thật hãnh diện vì cứ tưởng bố gọi theo nhan sắc. Ai ngờ đâu bố chỉ gọi theo giới tính, đơn giản vì con là con gái út, cũng là cô con gái duy nhất trong 3 anh em.

Vào một đêm mưa phùn của ngày mồng 3 tết năm 1991, Mẹ con lên cơn đau bụng dữ dội, cả nhà hoảng loạn đưa Mẹ đi trạm xá, riêng bà nội được cử đi xin khấn. Tới trạm xá, cô ý tá hỏi: mới ăn gì? Bố nói: ăn bánh chưng. Thế là cô kết luận: bị giun chui cuống mật rồi, Bây giờ phải uống thuốc. Mẹ con thều thào: không, anh ơi, giữ lấy con. Thế là bố mẹ nhất quyết không uống thuốc mặc cho cô y tá la mắng. Nhưng thật lạ lùng, không biết vì ham sống sợ chết hay nhờ lời cầu nguyện của mọi người trong làng, mà đến 10g đêm hôm ấy, con được chào đời trong vòng tay của bố mẹ. Bố đưa con về nhờ bà nội chăm sóc và xin thím mới sinh cho con bú ké em. Còn Mẹ phải chuyển viện gấp. Có lẽ cũng vì gian nan như vậy mà bao nhiêu tình yêu thương bố mẹ, ông bà, và hai anh dồn hết cho con. Tuổi thơ con đong đầy ký ức về những cánh diều, những trò chơi của con trai như đá banh, bắn bi và cả những câu kinh sớm chiều của mọi người trong xóm đạo. Thời gian cứ êm ả trôi cho tới một ngày, như những buổi chiều khác, con thường chào Chúa qua khe cửa sổ nhà thờ sau khi đi học về, nhưng lạ thay nhà thờ hôm ấy có 1 Sơ dòng mến thánh giá quỳ lặng chầu 1 mình bên Thánh Thể, yên bình, không ồn ào, không nổi bật nhưng đẹp và hạnh phúc đến lạ. Khoảnh khắc ấy đã gieo vào lòng con ước mơ sau này con sẽ trở thành một nữ tu thật thánh thiện.

Thế là, sau khi tốt nghiệp lớp 12, con bắt đầu thực hiện ước mơ năm xưa. Khi nghe con trình bày xong ý định muốn đi tu một dòng ở trong Miền Nam, mẹ con nói ngay: đi tu khổ lắm, nhà dòng bắt trồng cây chuối ngược cũng phải trồng, nếu làm vỡ chén thì phải đeo vào cổ và quỳ ngoài hành lang…, con hai anh trai nghe con định đi tu thì gọi điện về hết sức ngăn cản: “Nhà mình ít người, em không tu được đâu, ở nhà đi cho lành. Riêng bố thì bình tĩnh hỏi han ngọn nguồn về ý định, hành trình đi của con, rồi nói: “Thôi, con nó muốn thì để nó đi cho toại nguyện, biết đâu 7×3=21 ngày, chán rồi về giờ ấy mà, tính của nó, mẹ mày còn lạ gì!” 

Ngày 10.8.2008, con cùng với đoàn hành hương của Giáo xứ đi Đại hội La Vang. Bố con hẹn với cha Giuse (Dòng Phanxicô) sẽ đón con ở đây và dẫn con đi tu. Nơi hành hương người đông quá mà con thì nhỏ bé nên con chỉ còn cách chờ người ta về bớt, con mới có thể ra trạm điện thoại công cộng để liên hệ với cha. Thế nhưng, một sự kiện xảy ra ngoài kế hoạch. Đến sáng 13/8, khi đoàn người hành hương về gần hết, con chạy ra trạm điện thoại để gọi, thì ôi thôi: Số máy quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được, xin quý khách vui lòng gọi lại sau. Một lần, hai lần, rồi ba lần, con vẫn kiên nhẫn chờ và luôn nghĩ rằng: chắc cha vẫn đang ở gần đây, nên con không thấy lo lắng gì cả. Mãi đến chiều, khi người ta dẹp trạm điện thoại, quán xá và nơi hành hương đã hoàn toàn vắng lặng thì con bỗng cảm thấy hoang mang và lo âu. Dự cảm không lành, con chạy tới chỗ thông báo tìm người thân, nhưng thời gian càng trôi, con càng chìm vào trong vô vọng, càng thông báo càng không thấy người. Con bất lực chạy đến dưới chân Đức Mẹ và khóc lóc. Mẹ ơi, con phải làm sao đây? Một mình con bơ vơ ở đây con không biết phải đi đâu, làm gì? Mẹ muốn con tu hay không? Sau một đêm không ngủ, con quỳ trước Chúa Giêsu Thánh Thể cầu nguyện, khóc mệt con lại đi ra đài Đức Mẹ lần hạt, vật lộn với Chúa và Mẹ với biết bao câu hỏi, tâm sự. Nhưng dù có thế nào, trong lòng con vẫn vang lên câu hỏi: Con tin Ta không? Con có yêu Ta không? Cuối cùng, con quyết định đi theo tiếng gọi trong lòng và hành trang con mang theo duy nhất là niềm tin và hy vọng rằng nơi Miền Nam ấy có Chúa và Mẹ đang chờ con. Chắc chắn sẽ có một nơi Chúa định sẵn cho con.

Đến sáng, con gọi một ông xe ôm và dặn dò thật kỹ: “chú chở cháu ra chỗ bắt xe vào Nam để đi tu, chú nhớ là phải gửi cháu lên cái xe chở vào chỗ có Cha với có Sơ nhá. Thế là nước mắt ngắn dài, con chào Chúa và Mẹ để lên đường, xin các Ngài ở cùng con và dẫn con đến nơi Chúa và Mẹ định liệu cho con tu. Thế nhưng khi ngồi trên chuyến xe, lòng con ngổn ngang bao nghĩ suy, lo lắng, băn khoăn. Con cứ thế mà thầm thĩ với Chúa suốt chuyến đi. Cùng với bánh xe lăn đều trên đường vào Nam, thì bánh xe ký ức cũng ùa về. Như dân Israel xưa nhớ củ hành củ tỏi bên Ai Cập, con cũng nhớ lại những bữa cơm, những lời dặn dò, nhớ hình ảnh Bố Mẹ bần thần lo lắng, dặn dò nhiều điều trước khi con lên đường. Đặc biệt, bóng dáng Bố Mẹ chạy theo xe tiễn con đi tu, tất cả những tình yêu ấy khiến con thấy quặn lòng, con dần thấy hoang mang, nghi ngờ về quyết định của mình. Con thầm thĩ với Chúa: Chúa ơi, chỉ có Chúa là Đấng duy nhất con tin tưởng, là lý do để con bước tiếp. Chúa nhớ giữ gìn con và dẫn dắt con đến nơi Ngài muốn và dành sẵn cho con nhé. Chúa mà để con lạc lõng ở nơi đất khách này- chắc không được đâu.

Đang miên man với những nghĩ suy thì chú lơ xe gọi: Em xuống đâu?
Vội gạt 2 hàng nước mắt, con lí nhí đáp: Chú cho cháu xuống Miền Nam ạ.
Chú lơ xe: Cái gì?
Con nghĩ chắc là mình nói còn nhỏ, nên con gắng nói to hơn: Chú làm ơn cho cháu xuống Miền Nam ạ.
Chú lơ xe: Ơ hay, con bé này! Miền Nam mà cụ thể là ở chỗ nào, chứ Miền Nam mênh mông lắm.

Con mếu máo đáp:“Cháu không biết” rồi òa lên khóc. Chú lơ xe thấy hình như tai họa sắp tới nên vội lắc đầu bỏ đi. Có anh ngồi ghế bên cạnh nghe mẩu đối thoại của con và chú lơ xe xong thì chìa cho con cái điện thoại và nói: Đừng dại dột bỏ nhà đi như vậy, em gọi về cho bố mẹ đi! Như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao, con vội vàng mượn lấy điện thoại của anh để gọi cho bố. Đầu dây bên kia chưa kịp alo, con vừa khóc vừa mếu không thành tiếng: Con sai rồi, con không tu nữa đâu. Mẹ nghe tiếng con khóc thì cũng khóc theo khiến bố phải can ngăn: Bố đây rồi, bố nghe, nín, nín, hai mẹ con nín đi, con bình tĩnh nói cho bố nghe xem nào! Sau khi nghe con kể hết sự tình, bố nói: Cha có gọi điện về và nhắn không tìm thấy con và nói là nếu con có gọi về, thì gọi ngay vào số điện thoại này cho cha, rồi cha sẽ sắp xếp. Thế rồi cha gọi cho bác tài xế để đưa con đến điểm hẹn. Lúc này, con vỡ òa trong hạnh phúc, bao nhiêu lo sợ tan biến. Như thánh Phaolô, con chỉ chú ý một điều là “quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3,13b).

2. NƠI Chúa định liệu

Đôi khi con tự hỏi không biết cảm giác của tổ phụ Abraham xưa khi đặt chân đến đất hứa như thế nào, nhưng với riêng con lúc ấy, bao cảm xúc đan xen chực chờ như chỉ cần một cái chạm thật nhẹ thôi là sẽ vỡ òa. Sau khi đón con thì cha Giuse đưa con tới một số Dòng như Clara, Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (Salediêng) để giới thiệu về một số linh đạo, rồi hỏi con có thích không. Con chỉ biết cười chứ con nào có hiểu gì về linh đạo đâu. Cuối cùng, cha nói sẽ đưa con đến một dòng để con chính thức tu. Thế là con được đưa đến Dòng Đa Minh Tam Hiệp. Quả là: Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới. Đó lại là điều Thiên Chúa dọn sẵn cho những ai yêu mến Người”(2Cr1,9). Ấn tượng đầu tiên là hình ảnh Đức Mẹ đang bế Chúa ở cổng nhà dòng. Nhìn thấy Chúa và Mẹ, lòng con rộn lên những tâm tình khó tả, con đã bật khóc thật to vì không thể nói hết tâm tình tạ ơn của con, đồng thời như muốn trút hết những tủi thân và sợ hãi trong hành trình vừa qua. Con sụt sùi nói: Mẹ ơi, Mẹ không bỏ rơi con, Mẹ luôn đồng hành cùng con trên hành trình vừa qua và Mẹ đã ở đây để chờ con tới, Hội dòng này là đất hứa Chúa và Mẹ định sẵn cho con tu. Nhìn thấy con khóc trước tòa Đức Mẹ, cha Giuse hỏi: con đồng ý ở đây tu hả? Nước mắt đang còn giọt ngắn giọt dài nhưng mặt thì tươi rói và con gật gật dạ dạ lia lịa. Sau khi gặp gỡ, trao đổi, cha trao con cho Dì giáo đưa con vào Thỉnh viện.

Khởi đầu đời tu, con được cùng với 80 chị Thỉnh sinh khác dành 3 ngày tĩnh tâm nhìn lại hành trình con đã đi. Con tạ ơn Chúa đã ở bên, đồng hành với con và yêu thương dẫn con đến với ơn gọi. Con xác tín rằng: Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy (Hr 11,1). Vì thế, để có thể sống trong ơn gọi, điều kiện tiên quyết là con cần phải có niềm tin và hy vọng tuyệt đối vào Chúa, dám đặt cược cuộc đời mình vào bàn tay quyền năng, tình yêu và sự quan phòng của Ngài.

Những tháng ngày yên bình dưới mái nhà Thỉnh viện với sự chăm sóc, chỉ bảo tận tình của quý Dì giáo và tình chị em cho con nhận ra: khi chọn một con đường là con phải từ bỏ những lối mòn quen thuộc, để bước vào một niềm hy vọng linh thiêng mới, cần lắm nơi con sự can đảm để bước đi với một tinh thần không còn xưa cũ, con cần biết thay đổi những suy nghĩ, tính cách và mộng tưởng để phù hợp với ơn gọi hơn. Max Wiston Stone có nói: “Cây trái chỉ chín, quả hạt chỉ mẩy tròn khi được hấp thụ đủ cái lạnh của sương giá. Cuộc sống cũng vậy, chỉ tươi đẹp và đầy ý nghĩa khi đã nếm trải những nỗi buồn đau”. Cũng thế, thử thách, khó khăn là điều kiện tiên quyết, buộc người lữ hành phải trải qua để có thể lớn lên trong đức tin cũng như trong tương quan với Chúa.

Vào một ngày đẹp trời, 20 chị em chúng con được tách riêng ra thành lớp Phêrô và được đưa tới một vùng đất mang hương trà để có một thời gian chuẩn bị trước khi vào nhà Tập. Cùng với các chị em, con làm quen với các công việc chân tay, trải nghiệm những hạnh phúc và nước mắt trong công việc và đời sống cộng đoàn. Trong những giờ cầu nguyện, con nhận ra và thêm một lần nữa xác tín: “Đức tin phải được thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn (Gc 1,2)Thiên Chúa có yêu ai, Người mới gửi thánh giá đến cho người đó. Những chông gai, gập ghềnh là điều kiện cần và đủ cho quá trình tinh luyện đức tin của con. Thế nên, những mệt nhọc của công việc hay bận rộn của sứ vụ không là lý do khiến con nản chí nhưng là dấu hiệu để con xác tín mình đang đi đúng con đường huấn luyện của Chúa và cho con nếm cảm được những hương vị khác nhau của tình yêu.

Sau thời gian thử luyện, con được bước vào sa mạc Tập viện. Trong thời gian cô tịch này, tâm hồn con được Lời của Ngài thẩm thấu, biến đổi. Khoác trên mình bộ áo dòng trắng tinh con hằng mong ước, con tập cho mình thói quen thầm thĩ với Chúa mỗi khi khoác trên mình tấm áo dòng: Lạy Chúa, xin bảo vệ, giữ gìn thể xác và linh hồn con luôn trắng trong cho đến khi con ra trước tòa Chúa và giúp con dám chiến đấu không sợ thương tích. Khi cởi ra, con lại thưa: Lạy Chúa, xin cho con biết cởi bỏ con người cũ với những tính xấu, cũng những quyến luyến tội lỗi để con thanh thoát bước theo Ngài. Những giây phút bình lặng bên Chúa, con nhận thấy sự yếu đuối bất toàn và những vụng dại của bản thân. Bên cạnh đó, khung trời tập viện, đã giúp con tập cách lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, cả khi vui lẫn lúc buồn, tập nhẫn nhịn và yêu thương trong khác biệt, tập thánh hóa mọi thời khắc, mọi công việc và mọi tư tưởng.

3. ĐỊNH CƯ trong Nhà Chúa

Hoàn tất thời gian thực tập, con vỡ òa trong hạnh phúc, hồn lâng lâng nghẹn ngào khi được cùng với bố mẹ tiến lên hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa qua 3 lời khấn dòng, để “Trong nhà Chúa tôi sẽ định cư, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài”. Con thầm thĩ với Chúa: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con, xin cho con được định cư trong nhà Chúa, vĩnh cư trong con tim xót thương của Ngài suốt đời con. Dù chỉ một tích tắc thôi, Chúa cũng đừng để con có tư tưởng rời xa Ngài.

Sau khi tuyên khấn, con tiếp tục tiến trình đào tạo, bước vào thời làm sinh viên dưới mái trường của Thánh Tôma, “học để biết, để canh tân, để phục vụ, để yêu mến” (ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận). Con hạnh phúc được sống những tháng ngày của một sinh viên thần học. Nơi mái trường Thánh Tôma, con được thỏa thích với những chân trời tri thức mới, bay bổng với những suy tư thần học, những quan điểm, những cái nhìn khác nhau về vũ trụ, Thiên Chúa, con người. Lời Thiên Chúa đã phá vỡ những giới hạn của sự hiểu biết, mở toang cánh cửa tâm hồn, đổi thay những cái nhìn thiển cận của con. Vì thế, ba năm đèn sách cho con thêm xác tín vào sự hiện diện của Thiên Chúa và cảm nếm sâu hơn tình yêu của Ngài. Tất cả giúp cho đức tin của con thêm lớn mạnh, đời thánh hiến của con thêm ý nghĩa và thật sự có giá trị. Đặc biệt, con thêm bình tâm phó thác đời mình trong định liệu tuyệt vời của Thiên Chúa. Chúa đã sắp xếp và định liệu một chương trình cứu độ quá tuyệt vời. Ngài vẫn quan phòng mọi sự trong từng biến cố, từng giai đoạn sống còn của Giáo hội và nhân loại. Và khi đứng trước những ngưỡng cửa, lựa chọn mới, con luôn tâm niệm: “chính Chúa sẽ liệu”. Hoa đồng cỏ nội, chim thú muôn loài không ra khỏi tầm mắt của Thiên Chúa thì vì cớ gì mà Thiên Chúa lại không liệu cho con – thụ tạo đã được Con Một yêu dấu của Ngài dùng chính mạng sống mà chuộc lấy, những kế hoạch thật tuyệt vời.

Kết thúc 3 năm thần học, con được Mẹ Hội Dòng sai đi thực tập tông đồ tại một số cộng đoàn, nơi con trải nghiệm cách sống các Lời khuyên Phúc Âm và đời tu Đa Minh. Đồng thời, đó cũng là khoảng thời gian ân thánh cho con thực tập sống ơn gọi của người nữ tu Đa Minh Tam Hiệp trước khi con gắn bó trọn vẹn đời mình với Hội dòng trong lời Vĩnh Khấn.  

4. Lời Tạ ơn

Tổ phụ Abraham không chỉ nổi bật với gương vâng phục đức tin nhưng còn rất nổi bật về việc sống tâm tình tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Mỗi nơi Abraham đặt chân đến hay mỗi khi nhận được một ân huệ, ông đều lập bàn thờ để dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa. Con cũng muốn học hỏi nơi tổ phụ Abraham nhân đức này và muốn sống tâm tình này trong suốt cuộc đời của con. Con xin tri ân Chúa vì biết bao hồng ân vẫn hằng chan chứa trên cuộc đời con, từ khi con được thành hình trong dạ mẫu thân, cho tới phút giây này trong ơn gọi sống đời thánh hiến. Cảm tạ Chúa vì mọi ngày đời, con được ngụp lặn trong trời biển hồng ân yêu thương và quan phòng của Ngài.

Con xin khắc ghi công ơn của ông bà, bố mẹ, đã sinh thành dưỡng dục, luôn cầu nguyện, nâng đỡ và âm thầm hi sinh để con sống ơn gọi cách trọn vẹn.

Con xin cám ơn Mẹ Hội Dòng đã đón nhận con, cho con được tiếp bước các Mẹ, các Chị trong hành trình dâng hiến, sống chứng nhân cho Lời. Con xin tri ân quý Dì đã yêu thương, dạy dỗ, chỉ bảo con trong suốt  những năm qua. Con cũng xin cám ơn các chị, các em đã bên con, chung chia niềm vui, nỗi buồn trong đời tu.

Cha Timothy Radcliffe trong cuốn sách“Hát lên bài ca mới” đã kể lại một câu chuyện như sau: Khi được hỏi người ta làm gì trong đan viện, một đan sĩ cao niên trả lời: “ồ, chúng tôi ngã xuống rồi trỗi dậy”­3 và cha kết luận: chúng ta cần có một môi trường trong đó chúng ta có thể ngã xuống và trỗi dậy khi chúng ta lảo đảo bước về Nước Trời. Cũng thế, đã không ít lần con ngã xuống vì những yếu đuối, bất toàn, vụng dại nhưng quý Dì và chị em đã thương nâng con trỗi dậy. Con cũng xin gia đình tiếp tục cầu nguyện, nâng đỡ con trên hành trình đức tin cũng như bước đường hy vọng, vì con cần lắm những lời động viên, những cảm thông khi con vấp ngã, mỏi mệt, yếu đuối, con mong lắm những lời nhắc nhở, sửa dạy khi con lầm đường lạc lối từ những người Mẹ, người Chị đi trước, để “quyết định theo Chúa của con không chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ mà thôi, nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ trong cả cuộc sống” (ĐHV 69) mong rằng đường con đi mãi là đường hy vọng, luôn chứa chan hy vọng và đẹp như hy vọng.

Comments are closed.

phone-icon