Sr. Maria Nguyễn Thị Bích Ngọc
HVTH
Trong một xã hội tục hóa và thực dụng như hôm nay, con người có xu hướng thích được người khác phục vụ, hưởng thụ và được nhận lãnh hơn là trao ban. Tuy nhiên, vẫn có những người khác biệt đi ngược lại với xu hướng chung đó, thậm chí còn có những người tự nguyện hiến dâng chính cuộc đời mình để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Có những người vẫn ra đi và tìm kiếm ý nghĩa của đời mình trong sự tự nguyện đó với xác tín rằng “cứ tìm thì sẽ thấy” (Mt 7,7) như Chúa Giêsu đã dạy. Sau một hành trình dài ra đi với bao thao thức và khát khao, họ tìm được hạnh phúc thật sự. Trên hành trình đi tìm này, mỗi người phải mang theo cho mình hành trang tự nguyện. Tự nguyện tự nó là một giá trị đẹp, một lối sống có ý nghĩa trong hành trình làm người, một giá trị văn hóa cần được gìn giữ và phát huy đó là văn hóa tự nguyện.
1. Tự nguyện là…
1.1. Biết dấn thân
Trong Phật giáo, khái niệm dấn thân bao hàm ý nghĩa đi tới một cách tự nguyện, để hành động theo một chủ trương, một mục đích nhất định. Trong đời sống xã hội, có vô số ví dụ về việc dấn thân như: tham gia tình nguyện tuyến đầu phục vụ bệnh nhân Covid, nhận con nuôi, chăm sóc người gia neo đơn, nhập ngũ tự nguyện, gia nhập hội bác ái, làm việc từ thiện, đi tu… Trong Kitô giáo dấn thân là dám hy sinh, dám chịu thiệt thòi, dám bất chấp nguy hiểm, sẵn sàng quên mình vì một lý tưởng nào đó, nhưng không vì tư lợi hoặc tư danh. Dấn thân là một nét đẹp của văn hóa tự nguyện.
Tuy nhiên cũng có người sợ dấn thân, vì dấn thân thường phải đối diện với nhiều thử thách nặng nề. Dấn thân buộc tôi phải bước qua được vùng an toàn bao bọc mỗi người để đưa mình vào những thử thách mới, những trải nghiệm mới. Đó là những nỗi sợ mà con người phải vượt qua. Nhưng thật ra, chỉ trong trong sự dấn thân, con người mới có thể làm “trong sạch nguồn nước” đời mình. Không sống dấn thân để hòa mình với người khác, môi trường khác, hoàn cảnh khác, đời người sẽ giống như một ao tù ô nhiễm không sinh vật gì sống được. Khi dấn thân, con người tuôn đổ dòng nước của mình để được đổi mới bằng dòng nước khác trong lành hơn.
1.2. Không sống dựa
Một con người tự nguyện là biết cho đi và không bám víu vào những lời khen chê của người khác. Đó con người biết sống tự lập và kiên định. Dù cuộc đời là một bài toán cộng trừ những lời khen chê, nhưng người đó biết phân định để làm điều nên và phải làm chứ không sống dựa trên những ý của người khác. Vì nếu không tự nguyện làm điều gì đó, tôi sẽ không có can đảm và tự do để thoát ra khỏi sự tác động của đám đông.
Sống dựa là khi tôi không dám tự mình quyết định, nhưng phải nhờ đến sự bảo đảm nào khác bên ngoài mới có thể quyết định sống cuộc đời mình. Sống dựa khiến người tôi không dám tỏ thái độ thật hoặc không chấp nhận con người thật của mình. Tôi chùn chân lỏng tay vì sợ “người ta nói này nói nọ”, tôi bị ảo tưởng và lệ thuộc vào lời “khen hờ” của người khác. Những điều đó làm nên một cuộc đời không có hình hài, không có chủ thể đích thực cho những hành vi. Sống dựa là để “người khác sống dùm” bởi sự nhát đảm yếu đuối của bản thân.
Ngược lại với việc sống dựa là sống tự lập. Tự lập là dám là mình, dám chấp nhận những gì mình đang có và không bị lệ thuộc vào suy nghĩ của người khác. Sống tự lập chính là biểu hiện rõ ràng nhất của văn hóa tự nguyện trong cuộc sống con người. Chỉ khi tôi tự nguyện làm điều gì đó thì tôi đã tự lập trong chính suy nghĩ cũng như hành động của mình rồi. Nhưng sống tự lập không có nghĩa là tôi chỉ sống một mình, không quan tâm đến ai, nhưng là sống với người khác. Nhờ sống với nhau tôi tạo nên một sức lan toả của tình hiệp nhất, yêu thương.
1.3. Biết trao ban
Đỉnh cao của sự tự nguyện là hành động trao ban, trao ban sức khỏe, tài năng và cả cuộc đời của mình cho người khác. Chính như Đức Giêsu vì yêu thương con người mà Ngài đã tự nguyện trao ban chính mình qua việc chết trên thập giá. Linh mục Maximilian Kolbe cũng đã tự nguyện chết thay cho người bạn tù của mình trong trại tập trung Auschwitz. Chính nhờ tự nguyện đã làm cho trao ban trở nên đẹp và đáng trân trọng. Tôi dám trao ban là tôi cho đi con người của tôi, những cái đẹp, cái quý giá của tôi hay những cái quý giá đối với tôi. Khi trao ban là tôi chấp nhận hy sinh chính bản thân mình và chấp nhận chịu thiệt thòi. Nhưng khi tôi biết san sẻ cho người khác tôi sẽ nhận lại được hạnh phúc, vì hạnh phúc là thứ tài sản duy nhất mà tôi nhận được nhiều hơn khi tôi dám trao ban cho người khác. Khi tôi cho đi bao nhiêu tôi sẽ nhận về bấy nhiêu. Nó như tấm gương phản chiếu chính xác những gì tôi đã, đang và sẽ nhận được trong cuộc sống.
Sự cho đi dù chỉ là một nụ cười, một câu nói tế nhị, một lời hỏi han khích lệ hay cho những của cải vật chất, kiến thức, trí tuệ … tất cả đều có giá trị riêng. Cống hiến trao ban hết mình thì sẽ nhận được nhiều hơn là chỉ ích kỉ giữ riêng cho mình[1]. Trao ban chứ không phải trao đổi. Trao đổi là việc đòi hỏi phải có hai phía, phía bên cho một vật gì và bên kia cũng lại phải cho lại với một giá trị tương đương theo kiểu “bánh ít cho đi bánh quy cho lại”. Còn trao ban là cho đi và không mong chờ được nhận lại.
2. Điều kiện để hình thành văn hóa tự nguyện
2.1. Con người mắc nợ nghĩa tình
Trong cuộc sống mỗi người đều “mắc nợ nghĩa tình”. Vì ngay từ lúc có mặt trên đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, tôi đã được đón nhận biết bao ơn huệ, từ ơn sinh thành dưỡng nuôi của cha mẹ, ơn dạy dỗ của thầy cô, đến ơn giúp đỡ của bà con hàng xóm, bạn bè, của xã hội và quan trọng nhất là ơn làm người đến từ Thiên Chúa. Nên tôi nợ nghĩa nợ tình với tất cả, vậy tôi phải sống lòng biết ơn với những người đã từng giúp đỡ tôi. Tục ngữ Pháp có câu rất hay là: “lòng biết ơn là kí ức của tâm hồn”[2]. Lòng biết ơn giúp tôi nhìn nhận ra mình là ai, bởi đâu mà tôi có được ngày hôm nay, … nhờ đó tôi có động lực để thực hiện sự tự nguyện của mình. Tự nguyện vì lòng tri ân!
2.2. Con người có tự do
Điều kiện thứ hai để tôi sống văn hóa tự nguyện là phải được tự do. Vậy tự do là gì? Theo định nghĩa cơ bản, tự do là do tự chính mình đưa ra quyết định và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự quyết định đó[3]. Vậy tự do không có nghĩa là mình thích làm gì thì làm một cách bừa bãi, phóng túng, nhưng tự do là một hành vi tích cực cho phép tôi được làm chủ cuộc sống riêng của mình. Nhưng trong cuộc sống thật không dễ để con người có được sự tự do đích thực. Tôi có thể “không tự do” khi đời sống bị điều khiển bởi tác động của gia đình, bạn bè, văn hóa, luật lệ hay áp lực xã hội. Để có được tự do đích thực tôi phải biết làm chủ đời sống mình, thoát ra khỏi những luật lệ, và tự do với những áp lực xã hội. Chỉ khi có tự do đích thực tôi có có thể tự nguyện sống và đi tìm con người của mình trong hành trình làm người. Như Mẹ Maria khi nghe sứ thần loan báo Mẹ sẽ mang thai và sinh hạ Đấng cứu thế, dù phân vân lưỡng lự nhưng Mẹ vẫn tự nguyện “vâng lời sứ thần truyền”. Mẹ thưa tiếng xin vâng trong tự do mà không bị ép buộc, Mẹ tự do trong việc đáp trả cho lời mời gọi này để chính Mẹ đã đặt cuộc đời của mình vào trong kế hoạch của Thiên Chúa. Mẹ tự nguyện đi khỏi sự an toàn của bản thân để đi tìm mình là gì trong hành trình cuộc đời này. Như vậy, chỉ khi có được tự do đích thực tôi mới dám “đi”, dám ra khỏi mình để khám phá những điều tuyệt đối trong hành trình đời mình.
2.3. Con người có khả năng là chính mình
Điều kiện thứ ba để tôi có thể thực thi văn hóa tự nguyện là tôi phải bước ra khỏi đám đông vô danh và lộ ra chủ thể tôi của riêng mình. Khi tôi bị mất hút vào đám đông, tôi thực sự không sống đời mình một cách cá vị, tôi cũng không có bất kì liên hệ với bất kì con người cụ thể nào. Vậy nên muốn là chính mình tôi phải thoát ra khỏi tình trạng vô danh. Tôi là một con người duy nhất, tồn tại như một ngôi vị mà không có một sự trùng lặp hay thay thế nào. Thời gian hàng tỉ năm đã tạo nên con người độc nhất vô nhị của tôi. Cũng đã có những người khác nhưng không ai có thể đứng vào chỗ của tôi và sống cuộc sống của tôi. Tôi được sống với con người thật của tôi, với nhân cách, sự cá tính và độc đáo riêng biệt như mình “là”. Chỉ khi tôi xác định chủ thể tính của mình tôi mới có khả năng để tự nguyện làm điều mình muốn, tự nguyện để ra đi trong hành trình làm người. Tôi có thể hoàn toàn tự do để gặp gỡ người khác, những người cần được chăm sóc và yêu thương.
3. Người tu sĩ với văn hóa tự nguyện
3.1 Những khó khăn
Sống trong môi trường xã hội hưởng thụ và tục hóa hiện nay, có lẽ không ít tu sĩ đã tự hỏi: tại sao tôi phải dấn thân, phải trao ban, phải phục vụ và hy sinh, còn những người khác lại không thực hiện điều này cho tôi? Tại sao tôi phải sống lời khấn vâng phục, khó nghèo, khiết tịnh trong khi tôi có thể tự do lựa chọn lối sống làm theo ý mình thích?
Và, sau khi hỏi như thế thì họ cũng tự tìm câu trả lời cho chính mình: “Tôi chọn cuộc sống như vậy vì tôi muốn bắt chước Đấng Lang quân của mình, Đấng ‘vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế’ (Pl 2,6-8). Đấng đã tự hủy mình ra không vì yêu thương cứu chuộc con người, Đấng mà tôi yêu mến và muốn được sống mãi trong tình yêu của Ngài. Nói thì dễ nhưng thực hành thì rất khó, vì con người yếu đuối của tôi, nhưng chỉ cần có tình yêu Chúa thì tôi sẽ dám sống tự nguyện, dám sống dấn thân và trao ban để góp phần làm cho thế giới này thêm đẹp hơn.
3.2. Tập luyện sống văn hóa tự nguyện
Để sống văn hóa tự nguyện trước tiên tôi phải sống là chính mình sống đúng căn tính của một người nữ tu Đa Minh trưởng thành. Để có tự do trao ban, dám dấn thân, tôi phải tập cho đi thời giờ, sức khỏe, khả năng… của mình. Có thể lúc đầu chỉ là tôi tự nguyện làm vườn, tự nguyện quét nhà, tự nguyện làm những việc nhỏ bé không tên… và khi đã có thói quen tự nguyện làm những việc nhỏ bé như thế, tôi mới có thể tự nguyện làm những việc lớn hơn như: đi đến giúp đỡ những người ở vùng quê nghèo, đi dạy học cho những trẻ em ở vùng dân tộc khó khăn… Đi xa hơn nữa là tôi dám tự nguyện mở lòng mình ra để chia sẻ những thứ giá trị hơn, ý nghĩa hơn, gắn bó hơn với bản thân. Môi trường cộng đoàn chính là nơi thuận tiện để tôi tập cho đi những gì quý giá đối với mình để tạo nên hạnh phúc cho người khác. Qua đó tôi thấy rằng: cuộc sống của mình là cuộc sống không chỉ vì mình nhưng là cuộc sống với, sống vì, và sống cho người khác.
Điều quan trọng nhất là tôi cần biết nối nguồn với Chúa qua cầu nguyện. Nhờ cầu nguyện tôi sẽ nhận ra con người thật của mình, tôi sẽ biết sống trong tâm tình tri ân vì tất cả những gì tôi có đều là của Chúa. Nhờ đó tôi sẽ biết sống cho đi, dám dấn thân trao ban cho người khác. Nhờ nối kết với nguồn là Thiên Chúa, tôi sẽ có động lực hơn để tự nguyện làm những điều mình không muốn và sẽ có động lực để cải thiện con người của mình. Chỉ trong tình yêu dào dạt của Chúa, tôi mới là tình yêu trong lòng thế giới này như thánh Têrêsa Hài Đồng xác định: “trong lòng Giáo hội con sẽ là tình yêu”.
TẠM KẾT
Như vậy, văn hóa tự nguyện là một nghĩa cử đẹp, là một lối sống đáng quý của một con người có tự do, dám là chính mình và có tâm tình tri ân. Để có thể sống tự nguyện tôi cần vượt qua con người yếu đuối của mình, nhờ việc kết nối với Thiên Chúa qua cầu nguyện để có thể sống đúng căn tính của một tu sĩ Đa Minh trưởng thành. Nhưng điều quan trọng nhất của việc sống tự nguyện là không chỉ sống cho riêng bản thân mình, nhưng là “sống với, sống cho và sống vì” như Đức Thánh Cha Phanxicô từng khuyên các bạn trẻ: “biết bao lần trong đời, chúng con đã lãng phí thời gian để tự hỏi: ‘Tôi là ai?’ Con có thể tự hỏi mình là ai và mất cả đời để tìm xem mình là ai. Tuy nhiên, con nên tự hỏi như thế này thì hơn: Tôi sống vì ai vậy?”[4].
________________________________
[1]Lấy một vài ý tưởng từ GEORGE MATTHEU ADAMS, Không có gì là không thể, Nxb Trẻ, 2008, trang 57-58.
[2] VINH SƠN NGUYỄN, Nghĩa, Đại học Quốc gia, 2018, trang 14.
[3]TRẦN THÁI ĐỈNH, Triết học hiện sinh, Nxb Văn học, 2015, trang 209.
[4] ĐTC PHANXICÔ, Christus Vivit, Nxb Đồng Nai,2019, số 286.