Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào – Chúa Nhật IV Phục Sinh A

0

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

TIN MỪNG (Ga 10, 1-10)

1 “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp.2 Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.3 Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.4 Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.5 Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.”

6 Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ. 7 Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào.8 Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.9 Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.

10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.

(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)

*********

Trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan của Thánh Lễ Chúa Nhật IV Phục Sinh – Năm A, Đức Giê-su kể cho người Do Thái nghe một dụ ngôn, mà chúng ta quen gọi là dụ ngôn “Người Chăn Chiên Lành”; chính vì thế, hôm nay Giáo Hội cử hành CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH. Nhưng họ không hiểu điều Ngài muốn nói.

Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó.
Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
(c. 6)

Còn chúng ta, chúng ta hiểu rất rõ và cũng vừa xác tín và vừa cảm nếm nữa, Người Mục Tử Nhân Lành là chính Đức Giê-su. Tuy nhiên, chúng ta vẫn được mời gọi mở lòng ra để lắng nghe từng chi tiết của dụ ngôn nhỏ này, ví dụ ngôn sẽ dẫn chúng ta đi xa hơn trong việc hiểu biết và yêu mến Đức Giê-su, Mục Tử Nhân Lành.

 1. Người Mục Tử và kẻ trộm

Trong dụ ngôn, từ đầu đến cuối, Đức Giê-su so sánh người chăn chiên tốt lành, hay đúng hơn người mục tử đích thật, với kẻ trộm, kẻ cướp và với người lạ. Kẻ trộm không vào chuồng chiên bằng cửa chính, nhưng trèo qua lối khác mà vào; và sau khi vào, chiên không nhận ra tiếng của kẻ trộm, vì thế, sẽ không đi theo, nhưng bỏ chạy. Trong khi đó, người mục tử đi vào bằng cửa chính:

Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (c. 3-4)

Chúng ta hãy hình dung ra những gì Đức Giê-su mô tả ở đây, vì đó là một hình ảnh thật đẹp và thật đánh động diễn tả tương quan của chúng ta với Đức Ki-tô. Ngoài ra, còn có hình ảnh người giữ cửa nữa. Người này là ai, trong tương quan của chúng ta với Đức Ki-tô?

Hình ảnh Người Mục Tử đích thật và đàn chiên không chỉ đẹp và đánh động, nhưng còn mặc khải cho chúng ta những tiêu chuẩn để phân định ai là Người Mục Tử đích thật của chúng ta; bởi vì trong đời sống của chúng ta, bên ngoài cũng như bên trong, có nhiều thần tượng, nhiều ngẫu tượng, nhiều thần loại muốn trở thành “người chăn dắt” chúng ta, hay chính chúng ta để cho chúng đi vào tâm hồn, đi vào cuộc đời như là chủ nhân của chúng ta.

Tuy nhiên, dụ ngôn còn mặc khải thêm một điều nữa đụng chạm sâu xa và trực tiếp đến chính bản thân chúng ta. Vừa rồi, dụ ngôn nói về người mục tử đích thật. Thế còn chiên thì sao, ai là con chiên đích thật? Người mục tử đích thật gọi tên từng con chiên và đi trước dẫn đường; còn chiên, thì nghe và nhận biết tiếng của mục tử, và đi theo mục tử, chứ không bao giờ đi theo người lạ. Như thế, con chiên đích thật, là con chiên nghe và nhận biết tiếng mục tử của mình. Vậy chúng ta có phải là con chiên đích thật không? Là con chiên biết nghe và nhận ra tiếng của Đức Ki-tô, vị mục tử đích thật của chúng ta không?

2. Kẻ trộm phá hủy, vị Mục Tử làm cho sống

a. “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”

Để phân biệt chính mình là người mục tử đích thật với những kẻ trộm cướp, Đức Giê-su còn nói:

Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
(Ga 10, 10)

Chắc chắn, ai trong chúng ta cũng đều có hai kinh nghiệm này, một kinh nghiệm liên quan đến sự sống và một kinh nghiệm liên quan đến sự chết.

– Kinh nghiệm về sự sống đích thật và dồi dào, khi chúng ta lắng nghe Đức Ki-tô, đi theo Ngài và ở lại với Ngài.

– Và kinh nghiệm về sự chết, chưa phải là sự chết ở cuối cuộc đời, nhưng là bầu khí chết chóc ngay trong cuộc đời này, cuộc sống này, mỗi khi chúng ta đi theo và sống cho những ngẫu tượng khác với Đức Ki-tô, nghĩa là những gì khác với tình yêu, bác ái, tình bạn, bao dung, tha thứ, đón nhận nhau.

Nhưng Đức Giê-su đã làm gì để cho chúng ta có được sự sống và sự sống dồi dào? Đó chính là tất cả những gì Ngài đã làm trong mầu nhiệm Vượt Qua, mà chúng ta đã và đang cử hành trong Tuần Thánh và Mùa Phục Sinh, và chúng ta cũng cử hành mỗi ngày trong Thánh Lễ.

Trong thư thứ nhất (1Pr 2, 20-25), Thánh Phê-rô sẽ giúp chúng ta đi vào chiều sâu của cách thức, Đức Giê-su làm cho chúng ta sống và sống dồi dào nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua:

– “Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người”.

– “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính”.

– “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành”.

Thánh Phê-rô mô tả cho chúng ta một hình ảnh vừa đúng vừa đẹp về Người Mục Tử nhân lành của chúng ta. Không có người chăn chiên nào trên đời này giống như thế, vì Ngài cho đi chính sự sống của mình vì đàn chiên của Ngài.

b. Người Mục Tử “hy sinh mạng sống”

Vì thế, trong phần tiếp theo của bài Tin Mừng, là bài Tin Mừng của Thánh Lễ thứ hai, Mùa Phục Sinh – Năm A (Ga 10, 11-18), từ đầu đến cuối, Đức Giê-su nhắc đi nhắc lại hành động hi sinh mạng sống:

Mục Tử nhân lành
hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
(c. 11b)

Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi,
như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha,
và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
(c. 15)

Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được,
nhưng chính tôi tự ý hi sinh mạng sống mình.
(c. 18)

Điều phải làm cho chúng ta kinh ngạc, đó là, đáng lẽ ra người mục tử phải dùng sức mạnh và khí giới để đánh đuổi sói dữ đến “vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (c. 12); theo kinh nghiệm sống của chúng ta, người mục tử phải hành động như thế để tự vệ và để bảo vệ đàn chiên. Nhưng với Đức Giê-su, một cách lạ lùng Người để cho Sói Dữ tấn công mình, thay vì tấn cống đàn chiên; và Ngài để cho Sói tấn cống đến cùng, nghĩa là nó giết được Ngài, và Ngài hy sinh mạng sống của mình vì đoàn chiên. Tại sao vậy? Tại sao Ngài để cho mình bị tấn công mà không tự vệ? Và câu hỏi này hoàn toàn phù hợp với cuộc Thương Khó: tại sao, Ngài không dùng sức mạnh và khí giới để tự vệ và tiêu diệt những kẻ dữ và gian ác?

Kinh nghiệm sống sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào: chúng ta có thể dùng một chút bạo lực để huấn luyện loài vật, nhưng đến một giới hạn nào đó, thì chúng ta phải dừng lại, bởi vì bạo lực tự bản chất không phù hợp với nhân tính, nhưng thuộc về thú tính. Vì thế, có cái gì đó không ổn, cho dù chấp nhận được, một người bình thường hiền lành, nhưng bổng trở nên hung dữ và bạo lực với loài vật.

Vậy, chúng ta hãy hình dung ra Đức Giê-su, vị “Mục Tử Nhân Lành” của chúng ta dùng sức mạnh và khí giới để đánh đuổi sói dữ, đánh đuổi và diệt trừ những kẻ dữ và gian ác. Hình ảnh này, cho dù là chống lại Sự Dữ, vẫn không tương hợp với căn tính thần linh của Ngài, đó là nhân lành và nhân lành tuyệt đối. Hành động bạo lực, cho dù là có lí do chính đáng, vẫn không tương thích với căn tính nhân lành tuyệt đối của Ngài. Và đây chính điểm khác tuyệt đối nhất, giữa con người và Thiên Chúa. Loài người chúng ta hằng ngày vẫn phải dùng bạo lực chống lại bạo lực, để gìn giữ an ninh trật tự xã hội, để bảo vệ chủ quyền đất nước và đôi khi để răn dạy con cái trong gia đình.

Loài người chúng ta phải làm thế để bảo vệ “công bình và công lí”, nếu không sự dữ và bạo lực sẽ lộng lành; nhưng ai cũng biết là làm như thế, thì không thể loại trừ được bạo lực, không thể loại trừ Sự Dữ tận gốc rễ được. Dùng bạo lực chống lại bạo lực, người ta chỉ có thể ngăn chặn bạo lực lại thôi, như con đê mong manh ngăn chặn sóng dữ; và kinh nghiệm sống cho thấy, dùng bạo lực chống lại bạo lực sẽ làm phát sinh thêm bạo lực.

Xin cho chúng ta hiểu sâu xa và cảm nếm sự nhân lành tuyệt đối của Đức Giê-su trong mầu nhiệm Thương Khó; và nhất là hiểu được cách Ngài chiến thắng Sói Dữ: Sói Dữ làm cho Ngài phải chết; nhưng Ngài lại mạnh hơn sự chết; và như thế mạnh hơn Sói Dữ. Ngài chiến thắng Sói Dữ, không phải bằng bạo lực, nhưng bằng sự nhân lành, hay bằng sức mạnh của ánh sáng xua tan bóng tối; như lời Thánh Vịnh loan báo:

Ngài cho miệng con thơ trẻ nhỏ
cất tiếng ngợi khen đối lại địch thù,
khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan.
(Tv 8, 3)

3. “Tôi là cửa chiên ra vào”

Vẫn chưa hết. Đức Giê-su không chỉ nói mình là Mục Tử, nhưng còn nói mình là Cửa Vào nữa:

Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (c. 7-9)

Trong thực tế, chúng ta bỏ quên hình ảnh này, vì hình ảnh Người Mục Tử quá đẹp và quá hay, lấn lướt hình ảnh “Cửa Ra Vào”. Nếu chúng ta chú ý, chúng ta sẽ nhận ra rằng, hình ảnh Cửa Ra Vào nói về Đức Ki-tô một cách rất lạ lùng: chúng ta phải đi ra đi vào bằng cách đi ngang qua Đức Ki-tô như là cánh cửa! Ở một chỗ khác, Ngài nói Ngài là đường đi, còn ở đây, Ngài nói Ngài là “cửa ra vô”. Hằng ngày chúng ta phải ngang qua biết bao nhiêu là cửa và cổng. Nhưng đâu là cửa ra vào mà chúng ta chọn lựa cho cuộc đời của chúng ta, cho ơn gọi của chúng ta? Và cánh cửa mà chúng ta chọn, sẽ dẫn chúng ta đến đâu?

Hình ảnh “Cửa Ra Vào” được Đức Giê-su áp dụng cho mình, không chỉ lạ lùng, nhưng thật mạnh mẽ và triệt để; bởi vì, Ngài ước ao chúng ta đi ngang qua chính ngôi vị của Ngài, nghĩa là Ngài ước ao ban chính sự sống của Ngài cho chúng ta, để nuôi sống chúng ta hôm nay và mãi mãi. Nhưng chính Ngài đã “đi ngang qua” cách triệt để cuộc đời của chúng ta trước trong mầu nhiệm Vượt Qua.

Comments are closed.

phone-icon