Con ta đây đã chết, nay sống lại – CN 4 Mùa Chay, năm C

0

Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (15,1-3.11-32)

Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Người kia có hai con trai. Ðứa em thưa với cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu… Người con trai lúc đó thưa rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.

“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: “Ðó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”. Nhưng người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.

***

Chúng ta thường gọi câu chuyện trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe là “Dụ ngôn người con hoang đàng”, nhưng đúng hơn phải gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu”. Vì khi kể dụ ngôn này, Thánh Luca muốn biểu dương lòng nhân từ của Thiên Chúa nơi hình ảnh người cha, hơn là kể tội người con hoang đàng.

Khi người con thứ xin cha chia gia tài để được ra đi sống theo ý mình, người cha dù đau lòng trước sự bất hiếu của người con (vì người ta chỉ chia gia tài khi cha mẹ đã qua đời), nhưng vẫn tôn trọng sự tự do chọn lựa của con và cho người con điều anh ta muốn. Tuy không can thiệp vào chọn lựa của người con, nhưng người Cha chưa bao giờ bỏ rơi con mình. Bằng chứng là khi người con ăn chơi phung phí hết tiền bạc, phải đi chăn heo và chịu cảnh đói khát, anh quyết định trở về để xin làm công cho cha mình, thì người cha đã nhận ra anh ta ngay từ đằng xa. Ông vội chạy ra đón, ôm chầm lấy con và “hôn lấy hôn để”, sai người mặc áo, xỏ nhẫn, đi dép cho cậu và còn giết bê đã vỗ béo để ăn mừng vì tìm lại được con.

Chúng ta nhìn thấy ở đây nét đẹp của sự hòa giải, lòng cao thượng trong sự tha thứ và sức mạnh của tình yêu: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Chỉ có một điều quan trọng đối với người Cha, đó là sự sống, sự trở về của người con! Sự hối tiếc làm người con trở về, nhưng chính tình yêu và sự tha thứ của người cha mới cho anh sự sống mà anh đã đánh mất, và phục hồi nơi anh phẩm giá của người con.

Ngược lại, người con cả lại không muốn vào nhà chung vui với cha mình. Anh ta không muốn nhìn nhận “thằng con của cha” là em mình. Trong mắt anh ta, nó là một đứa đáng khinh bỉ vì đã “nuốt hết của cải của cha với bọn điếm”. Trong khi ở nhà, anh ta “đã bao năm trời hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh…”. Nhưng khi kể lể công trạng với cha, người con cả cho thấy anh ta đã sống với Cha như một người đầy tớ hơn là một người con.

Những người biệt phái hiểu rằng khi nói về người con cả, Chúa Giêsu muốn ám chỉ về họ. Chính những người biệt phái này không ngừng khoe khoang là họ luôn trung thành phụng sự “hầu hạ” Chúa. Họ nghĩ là sẽ được Chúa thưởng công xứng đáng vì “đã bao năm” họ tuân giữ kỹ lưỡng mọi điều răn của Chúa, dù là một chi tiết nhỏ cũng không bỏ sót. Nhưng Chúa Giêsu lại mời gọi họ hãy chung niềm vui của Thiên Chúa vì sự hoán cải của những người tội lỗi, và hơn nữa, hãy đón tiếp họ như Chúa đã làm. Khi đón tiếp và tha thứ cho những người tội lỗi, Chúa Giêsu cho thấy Người là trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, như lời Thánh Phaolô trong bài đọc II: “Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người. (2 Cr 5,18)

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để lãnh nhận bí tích giải tội, hay nói đúng hơn là bí tích hòa giải. Việc thay đổi từ ngữ giúp chúng ta hiểu đúng hơn về ý nghĩa của bí tích này. Vì việc cử hành bí tích hòa giải không phải chỉ giới hạn trong việc xưng thú tội lỗi của mình và dốc lòng chừa, nhưng còn để chúng ta được hòa giải với Chúa. Trở về với Chúa qua bí tích hòa giải nghĩa là nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi và mở lòng đón nhận tình yêu thương xót vô biên của Chúa. Chúa tha thứ mọi tội lỗi cho chúng ta không phải để đồng tình với sự yếu đuối của chúng ta, nhưng là để ban cho chúng ta sức mạnh hầu thắng vượt những yếu đuối, và trả lại cho chúng ta sự tự do mà chúng ta đã đánh mất do tội lỗi để chúng ta có thể sống yêu thương như Chúa mời gọi.

Chúng ta được Chúa tha thứ tội lỗi không phải do công trạng của chúng ta, nhưng hoàn toàn do ân huệ của Người. Mục đích việc xét mình-xưng tội-hối cải không phải để gây ra ơn tha thứ của Chúa, nhưng là để lãnh nhận ơn tha thứ đó. Vì thế, xét mình-xưng tội-hối cải là cách để chúng ta nói lên lòng khao khát được lãnh nhận ơn hòa giải: hòa giải với Chúa, với chính mình và với tha nhân. Như vậy, khi đi xưng tội là lúc chúng ta tuyên xưng lòng nhân từ bao la của Chúa và cho Chúa cơ hội được ôm chúng ta vào lòng. Vì từ lâu, Chúa hằng kiên tâm chờ đợi và luôn dang rộng đôi tay đón chờ chúng ta trở về.

Tuy nhiên, sự hòa giải này đòi hỏi chúng ta một sự cố gắng: dốc lòng thay đổi đời sống. Ðứa con hoang đàng, sau khi đã nếm đến tận cùng mọi nỗi khổ nhục, tự nhủ rằng: Tôi muốn trở về với cha tôi.” Việc “đi xưng tội” bày tỏ việc hối cải tâm hồn của chúng ta.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục ban ơn tha thứ và hòa giải cho chúng ta qua trung gian các linh mục. Linh mục ban phép giải tội không do danh nghĩa cá nhân, nhưng nhân danh Chúa: Vậy, cha tha tội cho con nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.” Trước khi trở về với Chúa Cha, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.” (Ga 20,21-23).

Trong Tông thư “Hòa giải và sám hối”, công bố năm 1984, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trích câu nói nổi tiếng của chân phước Isaac de l’Étoile, vào thế kỷ XII, để nhấn mạnh sự hiệp thông mật thiết giữa Chúa Kitô và Giáo Hội trong việc tha tội: Giáo Hội không thể tha tội nếu không có Chúa Kitô, và Chúa Kitô không muốn tha tội nếu không có Giáo Hội” (xem lời chú thích số 162).

Lễ Phục Sinh sắp đến gần. Kìa, người Cha ra khỏi nhà và chạy vội về phía chúng ta… Còn chúng ta, chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để đến gặp Người chưa?

Comments are closed.

phone-icon