THƯ CÁC ĐẤNG BỀ TRÊN TRUYỀN CHO CÁC CHỊ EM NHÀ MỤ
Dịch theo nguyên văn bản chữ Nôm in năm 1865
Thư Cụ Chính Phê gửi cho chị em năm 1791
(Trích từ “Lề Luật Nhà Mụ”, Nữ tu Đaminh Bùi Chu- Tam Hiệp, Biên Hòa 12/2/1972, tr. 20 a)
Phaterê Chính Phê thầy gửi nhời thăm các chị em Dòng Thứ Ba được bằng an, xin Đức Chúa Lời xuống Gratia cho chị em được giữ lề luật dòng cho giọn. Vậy Cha Cả ta là Ông Thánh Duminhgô lập Dòng Thứ Ba xưa có ý giúp Dòng Thứ Nhất. Vậy năm trước thầy đã gửi thư chung cho các chị em trong các nhà, thì cũng giúp ít nhiều, thầy cũng giã ơn, mà bấy lâu thầy đã có nhời răn bảo chị em khi có ai vay mượn thì chị em phải trình Thày Cả địa phận cho người xem xét đã nên chăng thể nào sẽ hay, song có nhiều nhà chưa cứ phép ấy, cho nên phần thì thiệt về của chung lắm, phần thì thiệt về chính việc là giúp dòng nuôi học trò học hành, cho được giúp việc linh hồn người ta là phần nhất, vậy bây giờ thày truyền cho các chị em các nhà, mỗi một năm đến lễ Ông Thánh Duminhgo phải nộp vào nhà tràng 6 tấm vải vừa phải mà mỗi tấm là 20 thước mắc, để may áo cho học trò, ấy là sự chung các chị em các nhà phải cứ phần ấy, còn nhà nào có sức hơn thì phải liệu hơn sự ấy chẳng kỳ. Sau nữa, tờ này các nhà chị em phải đóng vào sau sách lề luật, để cho được nhớ. Ấy là bấy nhiêu nhời, xin các chị em cầu cho thày cùng.
Tư cứ.
Thư Cụ Chính Phê gửi cho chị em năm 1791 ngày 13 tháng Giu-li.
(Trích từ “Lề Luật Nhà Mụ”, Nữ tu Đaminh Bùi Chu- Tam Hiệp, Biên Hòa 12/2/1972, tr. 20b – 22)
Phaterê Chính Phê, Dòng Ông Thánh Duminhgô, Phô-rô-vi-cá-ri-ô A-phông-sô-li-gô và Vi-cá-ri-ô Phô-rô-vinh-thi-a-lừ địa phận bên đông trong nước An nam gửi lời thăm các Mụ cùng các chị em Dòng Hãm Mình Ông Thánh Duminhgô cùng các Mụ các Chị Em họ Mến Câu Rút ở bên đông này, xin cho được mọi sự lành cùng ra sức giữ lề luật riêng chị em cho giọn.
Trước hết, thày truyền cho chị em cứ lề luật mình mà ăn ở cho cẩn thận. Vậy lề luật chị em Hãm Mình và lề luật chị em Mến Câu Rút dù khác nhau mặc lòng, song cũng tóm lại sự hãm mình cả, vì kẻ mến Câu Rút thì phải hãm mình và kẻ hãm mình cho được phúc thì phải hãm mình vì mến Câu Rút. Ấy vậy cho nên hai lề luật cũng có nhiều điều phải giữ như nhau và cũng có một ý cho chị em làm những việc lành phúc đức cho đáng Đức Chúa Lời thương đời này và đời sau vô cùng.
Vậy thày kể đây năm ba điều đã có trong hai lề luật ấy cho các Mụ và các Chị Em phải giữ như nhau:
-
Thứ 1: Chị em phải có lòng kính mến Đức Chúa Lời trên hết mọi sự và yêu người ta bằng mình vì Đức Chúa Lời.
-
Thứ 2: Trong các nhà chị em phải sắm sách lề luật ít là đủ cho chị em một người một bản, cho kẻ mới vào và kẻ chưa biết được học cùng thường xem đi xem lại cho được biết chính việc mình phải làm cho nên, lại trong ngày lễ dù đêm dù ngày chị em chẳng nên lấy làm dễ mà làm việc phần xác, một giữ lễ cùng học hành chữ nghĩa cả thay thảy.
-
Thứ 3: Chị em chẳng được buôn bán riêng hay để của nào riêng. Ví bằng khi mới vào có của riêng hay là ngày sau người ta cho của gì thì phải để làm của chung cả cho được sinh ra bổng lộc chung mà khi sau này kẻ ấy qua đời thì cũng cho mặc ý kẻ ấy giối của ấy cách nào hay là khi có ra thì cũng được lấy của ấy đưa ra, ấy là được giối hay là lấy vốn mà thôi, chẳng được lấy lãi bởi vốn ấy mà ra đâu.
-
Thứ 4: Các bà Mụ phải cứ lề luật mà phát áo cho chị em mỗi năm, cùng khi bệnh phải tìm thuốc thang cho uống cùng coi sóc cho phải thể.
-
Thứ 5: Bà Mụ nào cũng chẳng có phép lấy ý riêng mà cho người ta vay mượn tiền của gì trong nhà. Vậy bao giờ có phải cho ai lĩnh tạm vì lẽ nào thì phải trình Thầy Cả cai đấy và phải có bằng lòng hơn nửa phần chị em, ấy là những chị em trong lề luật đã cho phép bỏ thăm khi chọn Bà Mụ mà thôi. Bằng Mụ nào cả lòng lấy ý riêng mà cho ai của trọng gì thì phải lo vì Bà Mụ chẳng phải là chúa của cải trong nhà, một là kẻ phải ra sức coi sóc cuả ấy để chị em ăn mặc cùng uống thuốc cho đủ, bằng khi có dư ra thì làm phúc mà thôi.
-
Thứ 6: Trong nhà chị em chẳng nên cho đàn ông nào vào ăn uống đấy, hễ đàn ông nào có việc gì với chị em thì phải cứ nhà khách là hai ba gian trống ngoài ngõ, tự đấy chẳng ai được vào nữa. Dù bổn đạo có chồng con thì cũng chẳng nên cho năng ra vào trong nhà chị em đâu. Lại trong ba gian nhà khách chị em chẳng nên để đồ lễ gì làm ăn đấy, một phải dọn sạch sẽ cho khách ngồi đấy.
-
Thứ 7: Các nhà chị em chẳng bao giờ nên để thầy cả làm lễ đấy, ví bằng có chị em liệt phải chịu Viaticum, hay là thầy cả có đến chọn Mụ, chị Ả, mà trong làng chẳng có nhà thờ gần đấy, chốc ấy mới nên làm lễ nhà nguyện chị em mà thôi.
-
Thứ 8: Dù Thày Cả nào hay là người nhà Thày Cả nào hoặc có việc gì mà đến thì chẳng được cho ăn cơm trong nhà cùng nằm đêm đấy.
-
Thứ 9: Chị em chẳng được đi thuyền với người Thày Cả nào cùng chẳng được buôn bán cho người nhà thày và chẳng nên để trong nhà của gì người Thày Cả nào như đồng tiền hay là của trọng khác khi chưa có lời cùng Thày Cả cai mình.
-
Thứ 10: Chị em chẳng nên cho người Thày Cả nào vay đồng tiền hay là chịu miệng cho người ấy vay tiền bổn đạo khi chẳng có lời Thày Cả coi mình dạy.
-
Thứ 11: Chị em đi đàng với người nam, nhất là người nhà thày, thì chẳng nên đưa giầu cho vuối ….
Vậy ai chẳng cứ các điều trước này và nhiều điều khác đã có trong lề luật dù thầy đã 23 năm nay hằng răn dậy các chị em giữ, song chẳng thấy cứ luật, cho nên thầy lại gửi tờ này cho chị em được xét mình lại, xưa nay ở nhà Đức Chúa Lời là thể nào, đã ra sức mà hãm mình cùng giữ phép tắc nết na cho nên, hay là bấy lâu đã lấy làm dễ mà theo ý mình chăng thì phải lo liệu sửa lại cho kíp kẻo thiệt. Vậy Thầy thương linh hồn phô con nên nhắc lại bấy nhiêu điều cùng khuyên và truyền dạy phô con phải học lề luật mình cùng đọc khi ăn cơm như trong ấy đã dạy cho được nhớ mà giữ cho liên mà thầy trông cậy lòng lành Đức Chúa Lời thêm sức cho phô con và trông phô con bởi lòng mến Đức Chúa Lời mà hãm xác thịt mình cho được nên người có nhân đức cho đáng được Đức Chúa Lời thương phô con phần hồn phần xác đời này đời sau chẳng cùng.
Tư cứ.
Làm tờ năm Tân Hợi tháng 6 ngày 30.
(Trích từ “Lề Luật Nhà Mụ”, Nữ tu Đaminh Bùi Chu- Tam Hiệp, Biên Hòa 12/2/1972, tr. 22b – 24)
Phaterê Giua Kinh Hoan, Dòng Ông Thánh Duminhgô Vi-cá-ri-ô Phô-rô-vinh-thi-a-lừ trong nước An Nam này gửi nhời thăm các chị em Dòng Thứ Ba Ông Thánh Duminhgô ở Nhà Mụ địa phận bên đông này, xin Đức Chúa Lời gìn giữ cho khỏi ba kẻ thù, cùng mở lòng thêm sức mà đi đàng nhân đức cho giọn lành. Vậy năm Tân Hợi khi Đức Thầy Phê còn làm Bề trên Dòng, người đã gửi thư truyền cho các chị em phải giữ 11 điều rất cần, nhưng mà lâu ngày có khi chị em đã quên, lại gặp dịp cấm đạo này, thì càng lấy làm dễ cùng có kẻ chia trí quá mà thiệt mọi đàng. Thầy thấy sự làm vậy thì lo sợ kẻo dần dần mất phép trong nhà, lại có kẻ hư mất công mình ở nhà Đức Chúa Lời chăng. Vậy Ttầy thương xót linh hồn phô con lắm, nên truyền cho phô con phải giữ những điều sau này:
-
Thứ 1. Truyền cho chị em giữ cho cẩn thận 11 điều Đức Thầy Phê đã truyền cho chị em năm Tân Hợi, nhất là phải ra sức giữ điều thứ sáu, thứ tám, thứ mười.
-
Thứ 2. Cấm chỉ chẳng cho người nào nằm đêm hay là ẩn trong nhà Mụ khi chẳng phải lúc cấm đạo nhặt lắm, mà dù bao giờ cũng cấm chẳng cho chị em ra vào trong phòng người hay là phòng giúp lễ ở. Khi người có việc gì, như giầu cau nước non, quạt hầu, quét nhà, bưng mâm, việc nào trong phòng người chẳng kỳ đều cấm cả, vì đã có giúp lễ người làm bấy nhiêu việc chẳng lọ là phải dùng đàn bà làm chi.
-
Thứ 3. Cấm đàn ông nào, nhất là người nhà thầy, từ bậc thầy già mà xuống, vào trong nhà Mụ. Ai có việc gì thì cứ nhà khách chờ, hoặc trong chị em có ai cả lòng để người nam vào phòng mình ở, thì Mụ sẽ phạt chị em ở phòng ấy cho nặng, cùng sẽ trình thày, mà người nào vô phép dám vào phòng riêng chị em thể ấy, thày cũng phạt kẻ ấy cho xứng, mà Mụ phải giữ điều ấy cho thẳng, chẳng nên nể ai, Mụ nào lấy làm dễ thì thày chẳng nhịn đâu.
-
Thứ 4. Cấm chị em kết nghĩa riêng cùng người nam nào, dù là người nhà thày hay là người phần đời, dù kẻ ấy là người có nhân đức mặc lòng thì cũng chẳng nên.
-
Thứ 5. Cấm chỉ chẳng cho chị em bóp cho người nam nào, phải là người có tiếng nhân đức, dù là người bậc nào trọng hay là bệnh nạn mặc lòng, cũng cấm, vì chẳng nên liều mình thể ấy mà có tội.
-
Thứ 6. Cấm các Mụ cho chị em đi tết đi cơm mới, hay là đi thăm thày cả địa phận khác, có một được đi thăm Đức Thày, Bề trên Dòng và thày Cả coi địa phận ấy. Ba đấng ấy có việc bao giờ thì được đi thăm bấy giờ, nhưng mà cứ phép mà đi hai người với nhau, chẳng nên đi một người đâu cũng chẳng khá lìa nhau bao giờ.
-
Thứ 7. Cấm chị em uống rượu hay là để rượu trong phòng riêng, hoặc có người nào bệnh nạn mà thày thuốc dạy lấy rượu làm thang, chốc ấy mới nên uống ít chớ, song rượu thì Bà Mụ phải giữ, chị em chẳng được giữ riêng đâu.
-
Thứ 8. Chị em phải ở siêng năng nguyện giờ đọc kinh suy ngắm ở trong nhà nguyện, chẳng nên bỏ nơi chung mà nguyện riêng nơi khác; khi có việc cần và Bà Mụ tha phép mới được đọc riêng; khi chị em đã đến nhà nguyện phải đọc ngay, chẳng nên nói trò truyện sốt. Điều này xưa nay chị em đã lấy làm dễ quá.
-
Thứ 9. Cái roi chị em để đánh tội thì dữ quá, vì vậy thày sẽ phát cho mỗi một nhà một mẫu, mà tự khi được mẫu mới thì cấm chị em đánh roi cũ. Mụ cũng chẳng được dùng roi ấy mà phạt chị em nữa, một phải dùng roi y như mẫu thày phát cho là mẫu roi các nhà mụ phương tây quen dùng mà chớ.
-
Thứ 10. Hễ này lễ ban chiều, các chị em phải đọc kinh bản chung trong nhà nguyện mà chị em nào chẳng thuộc kinh ấy thì chẳng cho mặc áo dòng cho đến khi đã thuộc.
Sau nữa, chị em phải suy rằng: khi mình vào ở nhà Đức Chúa Lời, thì đã dốc lòng từ bỏ thế gian cho được xong mình mà đi đàng nhân đức thật, ấy vậy chị em rầy nghe chước ma quỉ mà chia trí mê sự thế gian, thì biết thiệt là thể nào, chẳng mất công tập tành bấy nhiêu ru! Vậy thầy khuyên phô con ở cho vững vàng và cầm trí lại cho lắm, chớ tưởng nhớ sự thế gian, vì đã từ bỏ nó rồi, hãy ở kín đáo trong nhà, kết nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu, mà chỉ lo việc rỗi linh hồn mà chớ.
Sau nữa, khi các Mụ đã được thư này thì sao lấy một bản, mà trình Thày Cả địa phận, đoạn sẽ đóng làm một vuối thư Đức Thầy Phê đã gởi cho chị em năm Tân Hợi, và từ nay mà đi một tháng một lần sẽ đọc hai thư ấy đang khi ăn cơm chung, để cho chị em được nhớ mà giữ.
Bấy nhiêu xin phô con cầu cho thày được rỗi linh hồn mà gặp phô con trên nước Thiên đàng.
Tư cứ.
Kỷ vị niên thập nguyệt thập ngũ nhật – Năm Kỷ Mùi tháng 10 ngày 15 cũng là ngày 23 tháng November năm 1799.
(Trích từ “Lề Luật Nhà Mụ”, Nữ tu Đaminh Bùi Chu- Tam Hiệp, Biên Hòa 12/2/1972, tr. 25- 26a)
Phaterê Giua-kinh Hoan vi-cá-ri-ô Phô-rô-vinh-thi-a-lừ Chính Chiêu Thầy gửi lời thăm các Mụ và chị em trong các nhà, xin cho được bằng an hai phần.
Vậy năm trước thầy và nhà ông Chính Hoan, nhà ông Chính Tăng coi sóc việc dòng thì đã bàn với nhau về sự chị em trong các Nhà Mụ, kẻ đã ở nhà các chị em từ 16 tuổi mà lên đủ 5 năm thì đã nên kể là người nhà dòng, đã nên cho mặc áo dòng, mà kẻ ở đủ 10 năm cùng đã đến 30 tuổi mà lên thì đã nên cho phép khấn cho được ăn mày ơn ích trong dòng vuối các kẻ đã ở trước. Song bấy lâu có nhiều nhà đã để cho chị em trong nha phải thiệt, vì có kẻ đã đến độ chừng ấy tuổi hay là đã quá chừng ấy tuổi mà khi sống cũng chưa được mặc áo dòng, chưa kể là người nhà dòng, khi chết chẳng có xin lễ cầu nguyện cho thì những chị em ấy đã phải thiệt nhiều. Vậy nay thầy nhắc lại cho các Mụ và các chị em trong các nhà được sở cứ việc thầy và ông chính đã dạy trước là khi các nhà Mụ, dù là Nhà Dòng Thứ Ba dù là Nhà Dòng Mến Câu Rút, hễ nhà nào đã chịu nuôi chị em nào từ 16 tuổi mà lên, đã ở nhà ấy cho đủ 5 năm thì phải kể là người nhà dòng, mà ví bằng phải là Nhà Dòng Thứ Ba thì Mụ và chị em nhà ấy có bằng lòng thì phải xin cho chị ấy được mặc áo dòng; bằng phải là Nhà Dòng Mến Câu Rút thì Mụ và chị em nhà ấy phải kể chị ấy là người nhà dòng ấy nữa mà bao giờ phô chị ấy đã ở trong Nhà Mụ cho đủ 10 năm cùng đã đến 30 tuổi mà lên thì Mụ và chị em nhà ấy có bằng lòng thì phải liệu xin cho chị ấy khấn như lề luật nhà dòng ấy cho các chị em được ăn mày ơn ích trong dòng vuối nhau khi sống và khi chết nữa.
Vậy như năm 1787, các Nhà Mụ Dòng Thứ Ba đã có nhời giao về sự xin lễ cầu nguyện cho nhau khi chết thì điều ấy đã rõ mà đến sau các Nhà Mụ Dòng Mến Câu Rút cũng xin vào nhời giao ấy như vậy thì các nhà đã chịu nhời giao ấy vuối nhau. Trong bấy lâu nay các nhà đã cứ cho các kẻ đã khấn trước mà chết đã được nhờ phần ấy cả thay thảy, còn những kẻ chưa được khấn có nhiều kẻ chết mà phải thiệt thì chưa phải phép công bằng thể ấy đâu, cho nên rầy Thày truyền hẳn cho các Mụ và chị em trong các nhà, dù Nhà Dòng Thứ Ba dù Nhà Dòng Mến Câu Rút, đã giao vuối nhau thế nào thì phải cứ như thế ấy, cho nên tự rầy mà đi, hễ kẻ nào đã ở trong nhà Mụ nào từ 16 tuổi trở lên cho đủ 5 năm mà có chết, dù Nhà Dòng Thứ Ba, dù Nhà Dòng Mến Câu Rút, đều phải cấp một nhà là 3 tiền cho nhà có người chết ấy được xin lễ cho linh hồn ấy, bằng kẻ nào đã dược khấn trước, thì các Nhà Mụ mỗi một nhà phải xin lễ Misa cho linh hồn ấy tại cụ địa phận như nhời đã giao vuối nhau cho phải phép công bằng vân vân. Lại như bà Mụ nào đã làm Mụ nhà nào, dù đang làm Mụ nhà ấy, dù đã thôi làm Mụ mà còn ở nhà ấy hay là đi ở nhà khác, bao giờ bà ấy qua đời thì nhà chị em bà ấy đã làm Mụ trước phải bàn vuối thầy cả và tùy công bà ấy đã coi sóc chị em là thể nào mà xin lễ cho bà ấy như trong lời giao, chẳng phải là bà ấy đã thôi làm Mụ nhà ấy thì cũng thôi lễ đâu. Lại Mụ và chị em trong các nhà mỗi năm một lần phải làm sổ trong năm ấy thu tiêu là bao nhiêu, chỉ tồn là bao nhiêu, cuối năm phải nộp sổ ấy cho cụ địa phận xin người tính cho mà người sẽ trình cho Thày biết. Còn các điều khác đã có lề luật và các thư các đấng xưa nay gửi cho thì Mụ và chị em trong các nhà sẽ cứ đấy mà tờ này thì các nhà chị em phải đóng vào cuối sách lề luật và lời giao cho dễ sở cứ. Bấy nhiêu cầu cho thầy cùng.
Làm tờ này năm 1828 tháng Sép-tem-be ngày 28.
Thêm trong số nhà chị em còn công nợ tiền của gì người ta hay là người ta còn công nợ tiền của gì nhà chị em, cùng khi nhà chị em còn chịu tiền của gì các cụ hay là người nhà Đức Chúa Lời hay là người bổn đạo gửi gấp đấy thì cuối năm cũng phải làm vào trong sở ấy để cụ địa phận tính cho và trình Thày nhân thể.
Tư thêm.
(Trích từ “Lề Luật Nhà Mụ”, Nữ tu Đaminh Bùi Chu- Tam Hiệp, Biên Hòa 12/2/1972, tr. 26b- 31a)
Phaterê Giêrônimô Vọng (Liêm) dòng Ông Thánh Duminhgô Phô-rô-vinh-thi-a-lừ trong nước An nam này gửi nhời thăm các bà Mụ cùng các chị em Dòng Thứ Ba Ông Thánh Duminhgô và các bà Mụ cùng các chị em Dòng Mến Câu Rút ở địa phận bên đông này cho được bằng an mọi sự lành.
Vậy năm Tân Hợi khi Đức Thày Phê còn làm Bề trên Dòng, người đã gửi thư truyền cho chị em phải giữ 11 điều rất cần, nhưng mà lâu ngày, chị em phần thì quên, phần thì bởi gặp dịp cấm đạo thì lấy làm dễ mà phải thiệt nhiều đàng, cho nên năm Kỷ Mùi đang cấm đạo thì nhà ông Chính Hoan lo sợ kẻo dần dần mất phép trong nhà mà chị em mất công ở nhà Đức Chúa Lời chăng thì người đã nhắc lại các điều Đức thày Phê đã truyền khi trước, lại người truyền 10 điều nữa cho chị em được sở cứ. Sau hết nhà ông Chính Chiêu, năm Mậu Tý cũng đã có thư cho chị em, trong thư ấy người dạy đến độ nào cùng tuổi nào chị em nên mặc áo dòng cùng khấn, lại người cũng dậy về sự xin lễ cho chị em khi qua đời cùng dậy phải làm sổ mỗi năm một lần về sự thu tiêu công nợ vân vân. Vậy Thầy đã xem các điều trong ba thư ấy, các Đấng đã cứ lề luật riêng chị em mà cắt nghĩa đấy, cùng thêm năm ba điều cho dễ giữ lề luật hơn, lại thày xét cách chị em ăn ở cùng giữ các điều ấy trong thì cấm đạo này là thể nào thì lấy làm lo vì thấy chị em đã lại quên nhiều điều cùng lấy làm dễ như trước nữa. Ví bằng các nhà bà Mụ bấy lâu có năng xem lề luật cùng điều trong ba thư các đấng đã truyền mà liệu cho chị em giữ, ắt là rầy thày chẳng phải làm thư nào về các điều ấy làm chi nữa. Song thầy thấy chị em chẳng giữ cho cẩn, cho nên thày rày phải làm thư này và truyền cho các chị em phải giữ các điều sau này:
-
Thứ nhất. Truyền cho chị em phải giữ 11 điều Đức thày Phê đã truyền cho chị em năm Tân Hợi, nhất là phải ra sức mà giữ điều thứ 6, thứ 8, thứ 10 trong thư ấy, cũng phải giữ các điều trong thư nhà ông Chính Hoan (Khuyến?) đã truyền năm Kỷ Mùi và các điều nhà ông Chính Chiêu đã truyền năm Mậu Tý nữa.
-
Thứ hai. Trong lề luật chị em Dòng Thứ Ba Ông Thánh Duminhgô, điều thứ 15, và trong lề luật Dòng Mến Câu Rút, đoạn thứ 11, dạy các ngày lễ chị em phải nghỉ xác, phải cầu nguyện hơn mọi ngày cùng phải học chữ cho được xem các sách chị em quen đọc, mà những ngày ấy cấm may vá cùng làm việc khác về phần xác, song le Bà Mụ hễ là một tháng ít là một ngày phải cho chị em làm việc riêng như may vá áo mình v.v. nhuộm cùng giặt quần áo v.v, kẻo chẳng rộng cho như vậy thì ngày lễ cả chị em phải làm việc riêng là sự chẳng phải mà bấy lâu chị em đã lấy làm dễ quá. Vậy thày truyền cho các Mụ phải giữ điều này cho nên như trong lề luật dạy, chẳng nên sai, chẳng nên cắt nghĩa đàng kia đàng nọ vừa ý mình đâu. Nếu bởi mụ hẹp điều ấy mà chị em phải làm việc riêng ngày lễ cả thì lỗi ấy Bà Mụ phải chịu, mà chẳng những phải cho chị em một ngày làm vậy, lại nếu chị nào có việc riêng cần như may vá v.v. mà một ngày ấy chẳng đủ phải xin thêm thì Mụ chẳng nên tiếc.
-
Thứ ba. Về sự chị em đến tuổi nào được mặc áo cùng khấn thì trong thư nhà ông Chính Chiêu đã định. Song le hoặc có người nào trong nhà chưa đủ năm chưa đủ tuổi mà phải bệnh nặng thì mụ và chị em cũng phải thương mà xin Thầy Cả cho khấn cho được ăn mày thông công các phép in-du trong Dòng. Nhưng mà kẻ khấn khi bệnh làm vậy mà qua đời thì chẳng được lễ vì chưa được vào sổ cùng thứ tự như kẻ khấn khi khỏe mà có đủ tuổi cùng đủ năm, song vì bằng kẻ ấy khỏi bệnh thì khi đến tuổi cùng đủ năm như trong thư mà ông Chính Chiêu đã chỉ mà mụ cùng chị em có bằng lòng thì sẽ trình Thầy Cả địa phận, từ đấy mới vào sổ cùng thứ tự, mới kể là đã khấn như phép đã dạy mà chớ.
-
Thứ bốn. Trong thư Đức Thầy Phê, điều thứ 4 dạy các Bà Mụ phải cứ lề luật mà phát áo cho chị em mỗi năm, cùng khi bệnh phải tìm thuốc cho uống cùng săn sóc cho phải thể. Điều này là sự rất cần, phép công bình buộc các bà mụ phải giữ. Vì chưng khi chị em khỏe mạnh thì làm những việc chung trong nhà nên cũng phải lấy của chung mà phát áo mặc, mà khi phải bệnh cũng phải liệu thuốc men cho chóng khỏe cho được làm việc chung như khi trước. Xưa nay các Đấng đã nhắc lại điều ấy cùng đã răn bảo nhiều lần cho cặn kẽ, song le chưa xong, ra điều tiếc tiền rái tổn v.v.. thì các mụ hãy nghĩ đấy.
-
Thứ năm. Các Bà Mụ đã biết; hễ người nào trong nhà đã mặc áo hay là đã khấn qua đời thì Bà Mụ hay là Chị Ả nhà ấy phải thông tin cho các nhà biết tỏ kẻ đã qua đời về bậc nào cho được khấn lễ và cầu nguyện cho kẻ ấy như lời các Nhà Mụ đã giao, cho nên nhà có người qua đời thì có gửi thư luân lưu cho các Nhà Mụ biết, lẽ thì các thư luân lưu làm vậy đến Nhà Mụ nào thì Nhà Mụ ấy phải gửi thư ấy cho các nhà mụ khác cho kíp để cho các Nhà Mụ biết sớm mà xin lễ cầu nguyện cho linh hồn ấy kẻo thiệt, song le việc này chị em thường lấy làm dễ quá, vì chưng có khi thư ấy để trong nhà một hai lễ mà chư liệu gửi cho Nhà Mụ khác, vì vậy từ rày: hễ có thư luân lưu nào đến Nhà Mụ thì phải có tên Nhà Mụ ấy, trong thư luân lưu phải chú chữ rằng ngày mỗ tháng mỗ đã được thư này mà nhà sau hết khi đã được thư luân lưu ấy, khi đã viết vào ngày nào tháng nào, đoạn thì nộp thư ấy cho Thầy Cả địa phận mình mà Thầy Cả ấy khi có dịp sẽ gởi thư ấy cho Thầy xem nhà mụ nào đã vâng cứ mà gửi thư ấy cho kíp cùng Nhà Mụ nào đã lấy làm dễ mà trì hoãn quá.
-
Thứ sáu. Mỗi khi Bà Mụ đã chịu nuôi người nào thì có trình Thầy Cả đia phận v.v…, bằng khi đuổi người nào ra thì có nhiều lần bà lấy ý riêng mà đuổi, chẳng thưa đến Thầy Cả cùng có khi chẳng thông nói vuốt chị em mà bàn cho được xét lỗi kẻ ấy nặng nhẹ đã đáng đuổi ra hay là thế nào, vì vậy từ nay mà đi hễ Bà Mụ và chị em đã chịu nuôi người nào dù kẻ ấy có sự lỗi nặng thể nào thì Bà Mụ chẳng được lấy ý riêng mà đuổi, phải trình Thày Cả địa phận mà Thầy Cả địa phận sẽ thưa Bề Trên cho người xét đã.
-
Thứ bảy. Trong lề luật dạy chị em phải mặc những áo vải, chẳng nên mặc lụa lĩnh cùng chẳng nên dùng đồ gì tơ sốt, mà nhuộm thì dù giống vải cùng chẳng nên nhuộm đỏ hay là những mùi lịch sự, phải nhuộm mùi thâm hay là mùi lam hay là mùi nao lăn tăn vậy, vì càng hèn trước mặt thế gian thì càng tốt lành trước mặt Đức Chúa Lời. Nhưng mà rầy trong chị em có kẻ bắt chước mẫu phần đời mà đi dép sừng trâu có đủ đinh thao sáng kẻng xưa nay trong chị em không quen đi thể ấy. Vậy truyền cho các chị em hễ ai ai có áo giống tơ thì chẳng nên dùng nữa, phải bán đi hay là cho kẻ khó mặc lòng, mà hạn từ khi được thư này trong 15 ngày, phải tiêu đi cho xong, khỏi 15 ngày, ví bằng Bà Mụ thấy có người nào trong nhà mặc hay là còn giữ thì phải thu lấy mà bán hay là phát cho kẻ khó, hoặc có người nào miễn cưỡng dức lác vân vân thì bà Mụ phải trình Bề trên cho người sửa. Về các dép thứ ấy cũng phải cứ như vậy.
-
Thứ tám. Hễ chị em đi buôn bán mà về nhà, có được lãi bao nhiêu hay là gửi thóc bông hay là giống gì ở đâu thì phải trình Mụ ngay mà chẳng khá giãn ra cho đến cuối năm mới trình làm chi, lại chẳng nân lấy ý riêng mà cho người ta vay khi chưa trình Bà Mụ, mà Bà Mụ phải cứ lề luật cùng các thư các đấng đã dạy về điều ấy. Vả lại, khi chị em đi hỏi nợ thì phải liệu nhời nói kẻo diếc lác mắng mỏ người ta cho nặng nhời thì sinh ra gương mù mất lòng người ta mà có khi cũng mất của nữa. Sau nữa khi người ta gởi tiền nhà mụ buôn…, người nào lĩnh tiền ấy thì chẳng được lấy ý riêng mà giữ tiền ấy mà buôn bán khi Bà Mụ chưa biết mà dạy thể nào. Vì vậy khi chị em được tiền người ta gửi làm vậy thì phải trình Mụ cho sớm, mà Mụ dạy ai phải đi buôn bán hay là dạy về tiền ấy thể nào thì sẽ cứ đấy, bằng khi người ta gửi tiền cho chị em nào giữ riêng thì chẳng nên tự quyết lấy tiền ấy mà buôn, cùng chẳng nên giữ, phải trình Mụ mà Mụ dạy thể nào thì cứ đấy mà chớ.
-
Thứ chín. Khi chị em đi đâu buôn bán hay là việc khác thì chẳng được trú trong nhà thày, lại dù trong nhà họ đã làm cho thày cả ở đang khi Thày Cả hay là người nhà thày ở đấy thì chị em cũng chẳng nên trú đấy nữa, cũng nên để thóc hay là giống khác trong nhà thày khi có thể mà liệu nhà khác chắc chắn hẳn hoi, bằng chẳng được nhà nào thể ấy thì sự bất đắc dĩ mới nên gửi thóc vân vân trong nhà thày. Song sự chị em nằm đêm trong nhà ấy thì cấm chỉ.
-
Thứ mười. Trong lề luật và trong thư các đấng vốn đã cấm cho đàn ông nào vào trong Nhà Mụ mà ăn uống đấy, hễ đàn ông nào, dù là người phần đời, dù là người Nhà Thầy, có việc gì vuối chị em thì phải cứ nhà khách, hoặc có người nào phần đời mà phải cho ăn cơm thì cứ nhà ấy, còn người Nhà Thày, nếu có Nhà Thày gần đấy thì phải cứ Nhà Thầy mà chớ.
-
Thứ mười một. Trong các Nhà Mụ xem ra chẳng có mấy nhà là khá. Lại có nhiều nhà thiếu, phải vay mượn cùng chịu nhiều công nợ, cho nên các nhà phải liệu bớt sự tốn kém về những sự chẳng cần. Vậy nhà ông Chính Hoan thương chị em khốn khó cho nên trong điều thứ 6 thư người làm đã dạy về sự chị em chẳng nên đi tết hay là lễ những đấng nào, song chị em bấy lâu không giữ điều ấy như ý người đã dạy, cho nên chị em về sự lễ lạc trong một năm phải tốn nhiều lắm. Vậy thày rầy nhắc lại điều ấy mà cấm các Bà Mụ cho chị em đi tết, đem gạo mới hay là đi thăm Thày Cả địa phận nào khác, có một được đi thăm Đức Thày, ông Chính dòng và Thày Cả địa phận mình, các đấng có việc bao giờ thì được đi thăm bấy giờ, nhưng mà phải cứ phép mà đi hai người với nhau, chẳng nên đi một người đâu cùng chẳng khá lìa nhau bao giờ, bằng về sự lễ lạc các đấng ấy thì trong nhà có giống nào như hoa quả ngoài vườn mà hết sức nữa hoặc lễ bánh trứng hoặc ba bốn con gà hay là ít con cá ao nhà thì mặc lòng, chẳng có thì một cơi giầu cũng đủ, còn sự nấu bánh chưng hay là đi chợ mua giống gì mà lễ thì cấm chỉ.
Vả lại năm Tân Hợi, Đức Thày Phê đã truyền cho các bà mụ: hễ mỗi một năm đến ngày lễ ông Duminhgô thì phải nộp 6 tấm vải để may áo cho học trò nhà trường, gọi là giúp dòng về sự rất cần cho có kẻ nối việc rất trọng là coi sóc cùng giúp linh hồn người ta thì bấy lâu chị em đã vâng giữ điều ấy, song khi nào có nhà nào khốn khó thiếu thốn thì các đấng coi sóc việc dòng đã lo liệu tính cho nhà ấy chẳng để cho phải chịu sự quá sức mình. Vậy rầy thày cũng một ý ấy mà cứ một lối ấy nữa, cho nên có lời bảo chị em: hễ là Nhà Mụ nào thiếu mà xin lĩnh tiền vải nộp thì thày cũng sẵn lòng và vui lòng phát cho đủ, mà nhà nào xin làm vậy thì chẳng nên ngại, chẳng nên xấu hổ vì điều ấy đâu, vì chưng thày đã biết khi chị em có thể được thì có lòng chung, chẳng tiếc gì về giúp việc dòng, nên khi chị em thiếu thì thày phải tính kẻo chị em càng thêm công nợ vào chăng. Ý là bấy nhiêu điều cần thấy phải nhủ bảo cùng truyền cho các Nhà Mụ phải sở cứ. Vì vậy, cho chị em được cứ mà giữ các điều trong thư này cùng các điều trong 3 thư Đức Thày Phê, ông Chính Hoan và ông Chính Chiêu thì các Nhà Mụ phải giữ ít là một nhà một bản thư này và thư các đấng đã làm, cùng phải đóng làm một mà hễ một tháng một lần đang khi ăn cơm phải đọc 4 thư này. Ví bằng trong một ngày chẳng kịp đọc cho đủ thì phải đọc hai ba ngày cho hết. Xin Đức Chúa Lời thương soi sáng giúp sức cho chị em được giữ phép tắc lề luật trong nhà mà đi đàng nhân đức một ngày một hơn cho sáng danh Đức Chúa Lời, cho ngày sau được phần thưởng cả thể trên Thiên Đàng, cùng xin chị em hằng nhớ cầu cho thày cùng.
Thầy làm thư này này 18 tháng 9 năm Bính thân, cũng là ngày 27 tháng Óc-to-bờ-rê (Au-gu-tô) năm 1836
Tư cứ.
(Trích từ “Lề Luật Nhà Mụ”, Nữ tu Đaminh Bùi Chu- Tam Hiệp, Biên Hòa 12/2/1972, tr. 31b)
Pha-te-rê Vi-cá-ri-ô Gie-ne-ra-li Hòa, Thày kiểm soát và truyền thêm như sau này:
Trong điều thứ 3 khi trước đã giao: Hễ nhà nào có người qua đời thì nhà ấy phải xin Thày Cả làm lễ, mỗi một lễ Misa là 6 tiền, song bởi vì cấm cách đã lâu, Thày Cả trong địa ta có ít lắm, nên ta định lại điều ấy cho các chị em được cứ là mỗi một lễ Misa một quan tiền để khi chị em xin Thày Cả trong địa phận ta không được thì xin Thày Cả địa phận Đông ký hay là Tây ký làm lễ cho cũng được.
Tư thêm
Năm 1865
Thư Đức Thày Khang gửi cho chị em năm Bính Dần
(Trích từ “Lề Luật Nhà Mụ”, Nữ tu Đaminh Bùi Chu- Tam Hiệp, Biên Hòa 12/2/1972, tr. 32 – 36)
Pha-te-rê Ba-na-bê Khang dòng Ông Thánh Duminhgô, Vít-vồ Bi-li-ấn-xi và Vi-cá-ri-ô Pho-tô-li-cô địa phận Trung trong nước An Nam, gửi nhời thăm các chị em Dòng Thứ Ba Ông Thánh Duminhgô và các chị em họ Mến Câu Rút được bình an cùng làm phép biên song cho được mọi sự lành. Vậy Đức Chúa Lời lòng lành vô cùng ngày xưa đã dạy ông Abraham bỏ cửa nhà quê quán cùng họ hàng mà đến nơi đất Người sẽ chỉ cho thì Người rày cũng chọn lấy phô con cùng dẫn vào Nhà Dòng để phô con được bỏ mọi sự thế gian cho dễ cho nên phô con phải ra sức bắt chước sự vâng lời chịu lụy ông Abraham bỏ cửa nhà quê quán cùng họ hàng cho dứt, bỏ các tính mê nết xấu phần đời đi cho được đẹp lòng Đức Chúa Lời một ngày một hơn. Vậy từ khi chị em bước chân vào Nhà Dòng, thì phải cởi áo cũ là ý riêng mình đi mà mặc lấy áo mới là vâng lời chịu lụy Đấng Bề Trên trong mọi sự, chẳng vậy thì chị em chẳng đáng gọi là người Nhà Dòng (Đức Chúa Lời), một là có tiếng người Nhà Dòng, có mình mẩy ở trong Nhà Dòng mà thôi, song thật sự chẳng phải là người ở trong Nhà Dòng đâu. Vì chưng sự nên người Nhà Dòng chẳng phải là bởi áo mặc bề ngoài mà thôi đâu, phải có áo bề trong là phải giữ luật cho phân miêng, phải giữ phép tắc nết na, phải ở hiền lành khiêm nhường hòa thuận, chịu khó nhịn nhục, giữ lấy tiếng tốt Nhà Dòng cho hết sức thì mới được mà chớ. Vả lại các chị em đã mặc áo dòng, dù mà chưa khấn giữ 3 sự cho trọng thể mặc lòng, song le phải cố giữ 3 sự ấy cho nhặt, kẻo ra bất nhân bội nghĩa cùng Đức Chúa Lời, vì chưng chị em đã quyết lòng giữ 3 sự ấy từ khi bước chân vào Nhà Dòng và Đức Chúa Lời đã ban phát cho chị em nhiều ơn Ga-ra-ti-a kể chẳng xiết cho dễ giữ 3 sự ấy, đã chọn lấy chị em vào Nhà Dòng mà bỏ nhiều kẻ khác có công lao nhân đức hơn chị em ở lại phần đời. Vả lại Đức Chúa Lời công chính vô cùng, Người đã phát vốn liếng cho ai ngần nào, hoặc là 5 khối hay 2 khối hay là một khối bạc thì sau này Người sẽ đòi ngần ấy. Đức Chúa Giêsu đã phán như vậy. Vì vậy, Đức Chúa Lời càng ban phát vốn liếng cho chị em nhiều hơn, ấy là càng ban nhiều ơn Ga-ra-ti-a, càng soi sáng cho chị em làm việc lành nọ, cất dịp tội kia, thương yêu nhau và hòa thuận vuối nhau, thì chị em càng phải lo lắng hơn, vì sau này sẽ phải thưa lại trước tòa rất uy nghi về vốn liếng ấy. Sau nữa, cội rễ mọi sự dữ mắc phải trong Nhà Dòng nào là do các người trong Nhà Dòng ấy chẳng giữ lề luật cho hẳn hoi tử tế, vì thế cho nên Thày là kẻ phải coi sóc linh hồn phô con lấy lời Đức Thày Phê quở phô con rằng: các Đấng Bề Trên hằng răn dạy các chị em giữ lề luật mà chẳng thấy cứ sốt. Vậy Thày gửi cái thư này có ý nhắc lại cho các chị em giữ lề luật cùng các điều về các thư luân lưu các Đấng Bề Trên đã gửi cho chị em xưa nay, và cấm các điều các Bề Trên đã cấm, và cùng có ý cấm thêm mấy điều, các chị em phải vâng cứ như sau này:
-
Điều thứ nhất. Thầy răn các chị em từ Chị Ả mà xuống còn giữ văn tự ruộng nào như của riêng thì phải nộp tại Bà Mụ ngay, chớ trì hoãn chút nào kẻo phải sự khó.
-
Điều thứ hai. Từ rầy mà đi Thày cấm ngặt từ Chị Ả mà xuống giữ văn tự ruộng nào hay là lấy tên riêng, có làm văn tự về ruộng nương vườn đất vân vân thì phải lấy tên Bà Mụ mà thôi, đây Thày nhắc điều thứ 3, điều thứ 5, điều thứ 6, điều thứ 9 cùng điều thứ 10 về thư Đức Thày Phê.
-
Điều thứ ba. Thày cấm các Bà Mụ lấy tên người phần đời mà làm văn tự vườn ruộng cùng gửi thóc cho người phần đời giữ. Thầy Cả coi sóc địa phận không được tha phép cho Bà Mụ làm thế ấy.
-
Điều thứ bốn. Hễ chị em phải đi coi sóc ruộng ở đâu xa nhà thì mỗi một vụ phải nộp sổ cho Bà Mụ. Thày cấm chị em không được cho ai vay bổng lộc về ruộng ấy trộm phép Bà Mụ.
-
Điều thứ năm. Mỗi sự sai lầm đã kể trước này thì ý bởi sự quên lề luật mà ra, nên từ rày mà đi, Thầy nhắc các chị em đã mặc áo dòng, chưa đến 70 tuổi, đến ngày Lễ Phục Sinh từ năm nay, trong hai năm một lần thì phải đến khảo lề luật thay thảy vuối Thày, hay là cha Chính, hay là cha cai tràng Lý đoán mặc ý chọn, còn các chị em đi rửa tội, bao giờ nó về thì cũng phải đến khảo lề luật y như các chị em ở trong nhà.
-
Điều thứ sáu. Thày nhắc lại thư cụ Chính Vọng (Liêm), trong điều thứ 11 khuyên chị em bớt tốn về sự mua đồ mà đi tết, cùng nhắc lại điều thứ 6 trong thư cụ Chính Hoan, cấm chị em đi tết Thầy Cả nào ở xứ khác. Thày chẳng những là cấm chỉ điều ấy mà cũng cấm chỉ chị em ra khỏi địa phận Trung mà đi tết ai. Lại Thày cấm nhặt chị em chẳng được đi tết quan viên ở làng nhà mình, kẻo sinh ra sự chê cười người Nhà Dòng Ông Thánh Duminhgô và Mến Câu Rút, và phải giữ bậc mình chẳng nên đi tết bổn đạo, vì chị em chẳng phải là kẻ bề dưới, chẳng phải là đầy tớ bổn đạo.
-
Điều thứ bảy. Thày nhắc lại điều thứ sáu trong thư Đức Thày Vinh đã cấm các Bà Mụ chẳng nên chịu lấy người nào vào trong Nhà Mụ hay là đuổi người nào về nhà quê khi không có phép Bề Trên hay là thày cả cai địa phận mình. Điều này các Bà Mụ phải giữ cho kỹ.
-
Điều thứ tám. Thày cấm các chị em đi thuyền mà làm bếp cho thày, cho các đấng, hay là cho thày cả nào kẻo sinh ra nhiều điều nói hành. Lại Bà Mụ có cho chị em đi bộ hay là đi thủy với các thày khi không có việc gì cần thì cũng sinh ra gương mù, nên xin các Bà Mụ liệu đấy kẻo mất tiếng cho Nhà Dòng. Lại Thày nhắc lại thư Đức thày Vinh trong điều thứ 9.
-
Điều thứ chín. Thày cấm chị em đi một mình, hay là đi vuối người phần đời. Khi đi đâu thì phải có hai người nhà Mụ thì mới được mà chớ. Lại một đôi chị em mới chưa mặc áo dòng thì không được đi vuối nhau một mình, cũng không được đi vuối bổn đạo, chỉ được đi vuối một chị đã mặc áo dòng mà thôi. Điều này có can hệ lắm, nên các Bà Mụ phải giữ cho kỹ.
Sau nữa, các điều trước này đã tóm lại trong lề luật và trong các thư luân lưu, song le thày có ý nhắc kẻo chị em quên đi. Khi thày mới lên làm Bề Trên địa phận Trung và xem lề luật cùng các thư luân lưu về các chị em thì thày nghĩ rằng ngần ấy điều thật là đã đủ cho chị em nên người thiêng liêng, nên người nhân đức giọn lành. Sự thày nghĩ thế thì có thật như vậy, ví bằng chị em có giữ lề luật cùng các điều đã có trong các thư ấy thì đã đủ cho các chị em nên người giọn lành nên thánh. Vì chưng sự nên người giọn lành nên thánh thì chẳng phải là tại làm nhiều công việc cao cả nặng nề khó nhọc vất vả quá đâu, một là tại làm các việc về bậc mình thường quen làm hằng ngày cho nên, cho phải phép cho được đẹp lòng Đức Chúa Lời mà thôi. Song thương ôi! thày nghe chừng như ma quỷ cám dỗ phô con theo lòng tham giữ của riêng trộm phép Bề Trên. Nhân vì sự ấy, thày chẳng nín lặng được, phải làm hết sức ngăn trở ma quỉ, kẻo nó phá việc Đức Chúa Lời, và làm cho chị em hư đi vì của cải. Vậy cho phô con được biết sự giữ của riêng trong Nhà Dòng là sự xấu lắm là thế nào thì thày sẽ kể một tích về sách ông thánh Luca kể công việc về các đầy tớ Đức Chúa Giêsu thì có lời này rằng: Trong thành Giêrusalem có hai vợ chồng nhà kia, tên là Anania, tên vợ là Saphiđa. Nó dốc lòng công đức hết ruộng để cho ông thánh Phêrô làm phúc nuôi các bổn đạo mới. Ông Thánh Phêrô chịu và khiến nó bán ruộng lấy bạc. Bấy giờ ma quỉ xui giục hai vợ chồng bớt bạc mà nói dối Ông Thánh Phêrô, một phần thì giao cho người, một phần thì giấu đi mà rằng: chúng tôi đã bán hết ruộng được bấy nhiêu bạc mà thôi. Bấy giờ người quở nó rằng: Anania, ma quỉ cám dỗ mày nói dối Đức Chúa Phi-ri-sang-tô làm chi, khi trước ruộng ấy là của mày, ai ép lòng mày công đức mà lại nói dối làm vậy? Mày chẳng phải nói dối cùng người ta đâu, mày nói dối Đức Chúa Lời mà chớ. Nó nghe lời ấy liền ngã xuống đất má chết tức thì. Người ta đem xác nó ra chôn. Khỏi phỏng 1 trống rưỡi canh vợ nó lại đến mà Ông Thánh Phêrô hỏi nó thì nó lại nói dối như chồng, người liền quở rằng: bay làm mất lòng Đức Chúa Phi-ri-sang-tô làm chi. Ấy những kẻ cất xác chồng mày khi nãy đã về thì lại cất xác mày nữa. Ông Thánh Phêrô nói đoạn thì nó liền chết. Thiên hạ thấy sự làm vậy thì kinh khủng sợ hãi lắm. Ấy ta xem Đức Chúa Lời phạt kẻ đã dâng của mình cho Người mà lại nói dối nói dá làm vậy. Vậy phô con đã dâng mình cùng mọi sự thuộc về mình, đã hợp một lòng một ý cùng lấy mọi sự làm của chung, vì bằng có kẻ nào cả lòng lấy một phần làm của riêng, dù mà không có Ông Thánh Phêrô quở trách cho mà chết về phần xác mặc lòng, song cũng liều mình phải Đức Chúa Lời công bằng vô cùng phạt kẻ ấy chết về phần hồn phần xác. Vậy như Ông Thánh Phêrô không bắt hai vợ chồng ấy công đức của gì thì Nhà Dòng cũng không bắt ai vào Nhà Dòng mà dâng mình cùng mọi sự thuộc về mình cho Đức Chúa Lời, vâng ý Bề Trên, cùng lấy mọi sự làm của chung. Song từ khi người nào bước chân vào trong Nhà Dòng thì phải giữ luật nhà, phải vâng ý Bề Trên, cùng phải lấy mọi sự làm của chung. Chẳng vậy thì kẻ ấy cũng liều mình chết ngay về phần hồn phần xác. Ôi phô con đừng lòng tham giữ của riêng trong nhà Đức Chúa Lời. Đừng thử phép Đức Chúa Phi-ri-sang-tô kẻo phải thiệt cả thể chăng. Vả lại, các chị em đi buôn bán có kiếm ăn được bao nhiêu thì phải nộp cho Bà Mụ bấy nhiêu tức thì, kẻo phải phạt như tích hai vợ chồng đã kể trước này. Thư này chị em phải đóng vào cuối sách lề luật nhà, cùng đọc mỗi tháng một lần như các thư luân lưu khác. Bấy nhiêu lời xin các chị em hằng nhớ cầu nguyện cho thày cùng.
Làm tờ này năm Bính Dần, tháng chín, ngày hai mươi hai
Tư cứ.
Dịch nguyên văn theo bản chữ Nôm in năm 1865.
DEO GRATIAS!