Hãy Nhớ đến Thầy
Bài học từ các cử hành Thánh Thể Kitô giáo ban đầu cũng dành cho chúng ta.
Bởi: FR. JOSEPH WIMMER, O.S.A.
Trong bữa Tiệc Ly (Bữa Tối Cuối Cùng) vào đêm trước khi bị đóng đinh, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của mình: “Đây là mình Thầy. Đây là máu Thầy. Anh em hãy làm điều này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Với vài lời này, Chúa Giêsu đã biến bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái cổ xưa thành một việc cử hành giao ước mới và một mối tương quan mới với Chúa Cha.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, các tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên đã tụ họp với nhau để dùng bữa như Chúa Giêsu đã nói với họ. Lặp lại lời nói của Chúa Giêsu: “Đây là mình Thầy. Đây là máu Thầy”, họ đã nhận ra sự hiện diện của Chúa đang ở giữa họ. Chúa Giêsu đã không bỏ rơi họ! Dù ngự trên thiên đàng, Chúa Giêsu vẫn gần gũi, vô hình, Người ở đó một cách mầu nhiệm nhưng thực sự như Chúa và người anh em của họ.
Tuy nhiên, các Kitô hữu tiên khởi biết rằng món quà này không chỉ để hưởng thụ riêng mình. Nó đã được chia sẻ với những người khác trong “lễ bẻ bánh”, trong sự hiệp nhất của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Theo Gioan, ngay cả Bữa Tiệc Ly cũng bắt đầu bằng một bài học phi thường về sự phục vụ khiêm nhường: Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ và nói với họ: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15).
Những Truyền Thống Sớm Nhất. Mặc dù cử hành Kitô giáo về món quà của Chúa Giêsu đôi khi được gọi là “Bữa Tiệc của Chúa” (1Cr 11,20), nhưng nó thường được đề cập đến nhiều hơn trong những ngày đầu tiên như “lễ bẻ bánh”. Tại sao? Các bữa ăn trong gia đình Do Thái cổ xưa luôn bắt đầu bằng một việc làm phép bánh bởi người chủ gia đình, người sau đó sẽ bẻ bánh bằng tay và đưa cho những người chung bàn mỗi người một miếng. Đó là một cách tạ ơn Chúa vì thức ăn và sự liên kết các thành viên quanh bàn ăn. Bữa Tiệc Ly cũng đã bắt đầu theo cách tương tự và các Kitô hữu đầu tiên chỉ đơn giản gọi đó bằng nghi thức ban đầu này, “lễ bẻ bánh”. Mãi cho đến đầu thế kỷ thứ hai, lễ bẻ bánh đó được biết đến với tên gọi la “Bí tích Thánh Thể”, một từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “Hy lễ tạ ơn”.
Không rõ các Kitô hữu đầu tiên thường tổ chức bữa ăn đặc biệt này như thế nào, nhưng có lẽ họ đã làm như vậy ít nhất một lần một tuần. Theo văn hóa Do Thái, ngày bắt đầu từ tối hôm trước, vì thế ngày Chúa nhật, hay “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv 20,7; 1Cr 16,2), thực sự bắt đầu vào tối thứ Bảy. Thánh sử Luca, khi mô tả cuộc sống của các Kitô hữu tiên khởi, nói rằng họ “vẫn chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Bằng cách liệt kê lễ bẻ bánh với giáo huấn của tông đồ và việc cầu nguyện, Luca cho thấy đó là một bữa ăn đặc biệt. Và, bằng cách kể sự hiệp thông trong danh sách (những việc các tín hữu tiên khởi thường làm), Luca thêm vào chiều kích quan trọng của các tín hữu là chia sẻ cuộc sống của họ với nhau.
Ở một số câu sau đó, Luca một lần nữa nhận xét: “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng quảng đại và vui vẻ” (Cv 2,46). Một lần nữa, Luca đề cập đến một nghi thức thường xuyên (“ngày ngày”) liên quan đến một bữa ăn tại nhà của một người nào đó và sự cởi mở trong việc chia sẻ nó một cách quảng đại với những người khác.
Chúng ta vẫn còn một cái nhìn thoáng qua về một cử hành hiệp lễ thời kỳ đầu sau đó trong sách Công vụ Tông đồ. Luca giải thích cách ngài và Thánh Phaolô đã ở lại một tuần tại Trôa ở Tiểu Á và Phaolô sắp khởi hành. Luca viết:
“Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em, và vì hôm sau ông sẽ rời đi vào ngày hôm sau, nên kéo dài bài giảng đến mãi nửa đêm. Một số đèn được thắp ở lầu trên, nơi chúng tôi họp nhau. Trong khi Phaolô đang giảng, một thiếu niên trẻ tên Êutykhô, đang ngồi trên gờ cửa sổ, cậu buồn ngủ và ngủ say, nên đã ngã từ tầng ba xuống dưới đất. Khi vực dậy thì cậu đã chết. Phaolô đi xuống, cúi mình và ôm lấy cậu. Phaolô nói: “Không có gì phải lo lắng, cậu bé vẫn còn sống”. Sau đó Phaolô trở lại lầu trên, bẻ bánh và ăn và tiếp tục nói chuyện cho đến sáng ông mới rời đi. Người ta đã đưa cậu bé đang sống về và mọi người đều được an ủi rất nhiều” (Cv 20,7-12)
Rõ ràng, Phaolô đã chủ tọa “lễ bẻ bánh”, lễ bắt đầu vào buổi tối và bao gồm một cuộc nói chuyện rất dài. Luca cho thấy đó là một lễ nghi (phụng vụ) và không chỉ là một bữa ăn bình thường khi ngài nói về việc thắp sáng của “nhiều ngọn đèn”. Thậm chí câu chuyện về Êutykhô cho thấy một khía cạnh thiết yếu của lễ cử hành này: Hiệp thông với nhau quanh bàn của Chúa nhất thiết phải bao gồm việc quan tâm đến sức khỏe thể lý của nhau.
Bí Tích Thánh Thể vào Buổi Sáng. Vào nửa đầu thế kỷ thứ hai sau Công nguyên (A.D.), các nghi thức Thánh Thể Kitô giáo đã được tổ chức vào sáng Chúa nhật và không còn là một phần của bữa ăn chung. Có lẽ đám đông chỉ đơn giản là quá lớn, hoặc có lẽ những sự lạm dụng đã len lỏi lại vào các bữa ăn tối cộng đồng. Đôi khi người ta cầu nguyện suốt đêm và kết thúc buổi cầu nguyện bằng một nghi thức Thánh Thể vào buổi sáng. Kiến thức của chúng ta về những thực hành này còn hạn chế, nhưng chúng ta có một văn bản từ khoảng năm 150 A.D., Lời chứng minh đầu tiên của Thánh Giúttinô, mô tả một nghi thức Thánh Thể Kitô giáo vào sáng Chúa nhật với một lễ nghi (phụng vụ) được mô phỏng theo nghi thức hội đường Do Thái. Ngài viết:
“Chúng tôi chào nhau bằng một nụ hôn. Sau đó, bánh mì và một chén chứa rượu pha với nước được mang đến cho vị chủ tọa giữa các anh em; ngài nhận lấy chúng và cầu nguyện, tôn vinh Chúa Cha của mọi sự nhờ danh của Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Khi lời cầu nguyện tạ ơn kết thúc, tất cả những người có mặt đều tán thành với lời thưa “Amen!”… Các phó tế phân phát bánh, rượu và nước… Thức ăn này chúng ta gọi là “Bí tích Thánh Thể”, … vì chúng ta không lãnh nhận được những thứ này như thể chúng là thức ăn và đồ uống thông thường… Bởi lẽ, thức ăn mà lời tạ ơn đã được nói đến trở thành máu thịt của Chúa Giêsu nhập thể, để nuôi dưỡng và biến đổi máu thịt của chúng ta” (ch. 65-67).
Thánh Giúttinô cũng nói đến những lời tận hiến và ghi chú rằng: “Hồi ký của các tông đồ hoặc các tác phẩm của các vị tiên tri” đã được vị chủ tọa đọc và công bố “khuyên nhủ và động viên chúng ta bắt chước những điều tuyệt vời mà chúng ta đã nghe”. Một cuộc quyên tiền cho những người túng thiếu: các góa phụ, trẻ mồ côi, những người đau bệnh, việc thăm những người xa lạ và những người khác. Họ thậm chí còn cầu nguyện Kinh Lạy Cha với nhau. Theo nhiều cách, việc mô tả này phản ánh cấu trúc của Thánh lễ như nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Những Lời Cầu Nguyện và Những Lời Khuyến Khích của các Giáo Phụ. Bản văn hoàn chỉnh sớm nhất của phụng vụ Thánh Thể đã được Thánh Hippôlytô của Rôma viết ra vào khoảng năm 215 sau Công nguyên, phỏng theo những lời cầu nguyện của người Do Thái sau bữa ăn, nó bao gồm những lời tận hiến và tưởng nhớ đến công việc cứu chuộc của Chúa Giêsu. Bây giờ, với những cải cách phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, lời cầu nguyện cổ xưa này đã được canh tân và ngày nay được sử dụng như là lời Cầu nguyện Thánh Thể II!
Ngoài những lời cầu nguyện cụ thể, quà tặng Bí tích Thánh Thể của Chúa Giêsu đã truyền cảm hứng cho nhiều tác giả Kitô giáo đầu tiên bày tỏ lời ngợi khen và tạ ơn, và nhắc nhở các tín hữu về sự cần thiết của sự hiệp nhất và bác ái.
Thánh Inhaxiô, giám mục thành Antiôkia, đã bị chính quyền La Mã bắt giữ khoảng năm 107 sau Công nguyên và bị kết án ném cho những con thú hoang vì đức tin của ngài. Trên đường đến Rôma, ngài đã viết bảy lá thư, một số trong đó bao gồm các mô tả về Bí tích Thánh Thể: “Anh chị em hãy cẩn thận khi chỉ tham gia vào một Bí tích Thánh Thể, vì chỉ có một thân mình của Chúa Giêsu và một chén để kết hợp chúng ta trong máu của Ngài, một bàn thờ, giống như có một giám mục” (Philadelphians, 4). “Khao khát của cha là bánh của Thiên Chúa, là thịt của Chúa Giêsu Kitô, và về thức uống, cha khao khát máu của Người, đó là tình yêu không thể bị phá hủy” (Ephesians, 7,2-3). Trong những lá thư này, Thánh Inhaxiô nhắc nhở mọi người về điều răn của tình yêu kép và cho biết thêm: “Những người tự xưng là thuộc về Chúa Kitô được biết đến không chỉ bởi những gì họ nói, mà bởi những gì họ thực hành” (Ephesians, 14).
Thánh Lêô cả, giám mục thành Rôma, người đã đối mặt với Attila the Hun năm 452 A.D., đã giảng nhiều bài về việc chăm sóc những người túng thiếu. Ngài cũng nhấn mạnh thực tế về sự hiện diện Thánh Thể của Chúa Giêsu và sự kết hợp mật thiết của chúng ta với Người: “Ngay cả lưỡi của những trẻ sơ sinh cũng không giữ im lặng trước sự thật về mình và máu của Chúa Kitô trong nghi thức Rước Lễ. Vì trong sự phân phát huyền nhiệm của sự nuôi dưỡng tinh thần, những gì được cho và nhận là việc nhận lãnh sức mạnh của thức ăn trên trời mà chúng ta hòa tan vào xác thịt của Đấng đã trở thành xác thịt của chúng ta” (Thư 59).
Những bài học cho các Kitô hữu tiên khởi cũng áp dụng cho chúng ta. Họ kêu gọi chúng ta đón nhận Chúa Giêsu vào tâm hồn của chúng ta với niềm vui khiêm nhường và lòng biết ơn, nhưng cũng để mở rộng lòng với tình yêu quảng đại cho những người xung quanh chúng ta. Chúa Giêsu hiện diện vinh quang trong rất nhiều cách: bên hữu Chúa Cha, trên bàn thờ trong Thánh lễ, trong tâm hồn chúng ta và ngay cả trong “sự ngụy trang đau khổ của người nghèo khổ nhất của những người nghèo” (Mẹ Têrêsa).
Theo The Word Among Us[wau.org]
Personal Spirituality Resources
Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương