Những phép lạ đương đại của Mẹ Maria Diễm Phúc các Thánh Và Thánh Thể được khoa học công nhận – Phép lạ Thánh Thể – Trang 7

0

Phần B: Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức

Những lần hiện ra của Trinh nữ Maria Đầy Ơn Phúc với Bernadette Soubirous trong hang Grotto ở Lộ Đức năm 1858 có lẽ là lần hiện ra được biết đến nhiều nhất của Mẹ Maria trong lịch sử — chính cuộc hiện ra của Mẹ thì không được nhiều người biết đến nhưng do hàng ngàn phép lạ chữa lành đã xảy ra nhờ nước trong hang Grotto.

Ngày 11 tháng Hai năm 1858, ngay bên ngoài Lộ Đức, Pháp, Bernadette Soubirous (một cô thiếu nữ 14 tuổi không được học hành nhiều), cùng em gái là Toinette, và một người bạn tên Jeanne Abadie đi tìm củi và xương khô trong hang. Ngay khi em cởi giày và vớ thì một bà dáng người nhỏ, mặc áo màu trắng với thắt lưng màu xanh dương, và đang cầm một chuỗi mân côi bằng vàng hiện ra với em. Bernadette cố làm dấu thánh giá nhưng không thể được vì quá sợ hãi, lúc đó Bà gọi em cùng đọc kinh mân côi với Bà, để lấy lại bình tĩnh cho em. Bernadette là người duy nhất nhìn thấy và nghe thấy Bà.

Khi Toinette về nhà, em kể lại cho mẹ nghe và cả cha mẹ đều phạt hai em vì bịa một “câu chuyện” như vậy. Tuy nhiên, Bernadette lại được thúc đẩy quay trở lại hang, và Bà lại hiện ra với em. Bernadette mang theo nước phép, và rảy vào Bà để xem Bà có lùi lại để tránh nước phép không, nhưng Bà chỉ mỉm cười, đồng thời Bernadette nói với Bà rằng nếu Bà không phải là từ Thiên Chúa thì hãy đi đi. (16) Bà mỉm cười cúi xuống và Bernadette rơi vào trạng thái xuất thần — cảm nhận được sự thánh thiện và tình yêu của Bà. Những bạn cùng đi chứng kiến sự xuất thần này và dường như kéo dài sau khi Mẹ hiện ra. Bernadette trở lại hang Grotto lần thứ ba, và Bà trao cho em các hướng dẫn và trở lại hang thêm một số lần trong suốt hai tuần lễ tiếp theo. Ngày 20 tháng Hai, Bà dạy em đọc kinh và yêu cầu đền tội xin ơn hối cải cho các tội nhân.

 ____________________________________________________

16 Vô danh, “Những lần Đức Mẹ hiện ra năm 1858” trên website chính thức của Lộ Đức. https://en.lourdes-france.org/deepen/bernadette-soubirous/the-apparitions.

Bernadette trở lại hang Grotto trong nhiều dịp khác và có hàng trăm người đi theo. Website chính thức của Lộ Đức liệt kê những chi tiết quan trọng trong các lần hiện ra như sau: (17)

Chúa nhật 21 tháng Hai. Sáng sớm, cùng đi với Bernadette có khoảng 100 người, sau khi Mẹ hiện ra, thánh nữ được Jacomet, một ủy viên hội đồng cảnh sát thẩm vấn.

Thứ Ba 23 tháng Hai. 150 người cùng đi theo Bernadette đến hang Grotto. Mẹ hiện ra tiết lộ cho thánh nữ một bí mật “chỉ dành riêng cho con.”

Thứ Tư 24 tháng Hai. Thông điệp của Đức Mẹ: “Hãy sám hối! Hãy sám hối! Hãy sám hối! Cầu cho kẻ có tội. Hôn đất như là một hành động đền tội cho các tội nhân!”

Thứ Năm 25 tháng Hai. Ba trăm người có mặt. Bernadette kể lại: “Bà nói tôi hãy đi, uống nước từ mạch nước (….) tôi chỉ tìm thấy một vũng nước nhỏ đục ngầu. Sau lần cố gắng thứ tư tôi đã uống được. Bà cũng bảo tôi ăn cỏ đắng mọc ở gần mạch nước, sau đó thị kiến hết và Bà biến đi.”

Thứ Bảy 27 tháng Hai. Tám trăm người có mặt. Sự hiện ra lần này diễn ra trong im lặng. Bernadette uống nước từ mạch Nước chảy ra và thực hiện những hành động đền tội như thường lệ.

Chúa nhật 28 tháng Hai. Hơn một ngàn người có mặt tại địa điểm diễn ra thị kiến. Bernadette cầu nguyện, hôn đất và quỳ bước đi như là một hành động đền tội. Sau đó thánh nữ được đưa đến nhà Chánh án Ribes người đe dọa tống thánh nữ vào ngục.

Thứ Hai 1 tháng Ba. Hơn 1500 người tập trung và trong số đó, lần đầu tiên có một linh mục. Khi đêm đến, Catherine Latapie, một người bạn của thánh nữ ở Lộ Đức, đi đến hang Grotto, cô nhúng cánh tay bị liệt của mình xuống dòng nước của Mạch nước: cánh tay và bàn tay của cô lấy lại được cử động bình thường.

Nhiều sự chữa lành xảy ra tại hang Grotto (trong đó có bảy trường hợp y khoa không thể giải thích – và đó là phép lạ) đã lôi cuốn ngày càng đông người đến hang. Điều này gây ra nhiều tranh cãi cả trong Giáo hội và trong thị trấn. Một quyết định được đưa ra vào tháng Ba ngăn cấm việc đến hang Grotto nhưng lại dẫn đến hậu quả là thu hút sự chú ý của báo chí và chính quyền quốc gia. Bernadette không bị ngăn cản, và lại đến hang Grotto bị ngăn cấm vào ban đêm trong nhiều lần khác. Một trong những lần như vậy (ngày 25 tháng Ba, 1858) Bà tuyên bố rằng Bà là “Vô nhiễm Nguyên tội.” Lần hiện ra cuối của của Bà vào ngày 16 tháng Bảy năm 1858.

_________________________________________________________

17 Ibid.

___________________________________________________________

Sự tranh cãi liên quan đến việc đóng cửa hang Grotto trở thành một vấn đề quốc gia, buộc Hoàng đế Napoleon III phải chính thức tái mở cửa hang Grotto vào ngày 4 tháng Mười, năm 1858. Giáo hội Công giáo lo lắng về sự nổi tiếng quá lớn của hang Grotto và khả năng người dân có thể bị lầm đường lạc lối, vì vậy Đức Giám mục nhóm họp một ủy ban hội thánh vào tháng Mười Một năm 1858 để điều tra tính xác thực của các lần thị kiến của Bernadette. (18) Ngày 18 tháng Một, năm 1860, Đức Giám mục, với sự cố vấn của ủy ban, đã tuyên bố rằng sự hiện ra là thật. Bernadette được tuyên phong thánh năm 1933. Ngày nay, gần 4 triệu người hành hương đến viếng đền thánh mỗi năm, và hàng trăm người nhận được những phép lạ chữa lành.

B.1 Những phép lạ chữa lành

Từ lần hiện ra đầu tiên của Mẹ Diễm Phúc với Bernadette Soubirous, nước của Hang Lộ Đức đã trở thành nguồn phép lạ chữa lành, cho cả những người đến viếng Hang và cho những người ở các nơi xa sử dụng nước. Tính từ thời điểm của Bernadette, hơn 7.000 phép lạ chữa lành đã được báo cáo với Phòng Y khoa Lộ Đức bởi các khách hành hương đến viếng Lộ Đức (trong đó không bao gồm những phép lạ diễn ra bên ngoài Lộ Đức).

Có quá nhiều sự chữa lành nổi tiếng liên quan đến nước và Hang Lộ Đức đến mức Giáo hội Công giáo quyết định thành lập Phòng Y khoa Lộ Đức dưới sự điều hành của riêng các bác sĩ và các nhà khoa học. Mục tiêu của Phòng là đưa ra phán quyết rằng một sự chữa lành cụ thể phải xảy ra ngay lập tức, và có hiệu quả trong suốt phần đời còn lại, và về tất cả mọi phương diện thì khoa học không thể giải thích được. Phòng có 20 bác sĩ và khoa học gia. Phòng sẵn sàng đón bất kỳ bác sĩ hay nhà khoa học nào muốn thực hiện cuộc điều tra riêng hay muốn thử thách trường hợp nào đó được xem là “phép lạ.”

Từ năm 1883, chỉ có 69 trường hợp được công nhận là “phép lạ” dưới những tiêu chuẩn khắt khe của Phòng. Nhưng điều này không có nghĩa là 7.000 trường hợp được chữa lành khác không phải là phép lạ theo các tiêu chuẩn khác. Đơn giản vì những trường hợp này không hoàn toàn cho thấy không thể giải thích bằng khoa học – mặc dù sự kiện là hoàn toàn khác thường và thậm chí có thể là phép lạ.

69 trường hợp được công nhận bởi Phòng Y khoa Lộ Đức đã được điều tra thật kỹ bởi rất nhiều bác sĩ và các nhà khoa học, và hầu hết các trường hợp đó đều cho thấy là sự chữa lành vĩnh viễn và không thể giải thích được. Bạn có thể tìm danh sách các trường hợp chữa lành ở đây.

Có những sách và websites viết về những trường hợp đặc biệt, nhưng độc giả muốn có thêm thông tin về 69 trường hợp ở trên thì phải đến Phòng Y khoa Lộ Đức. Có thể đặt lịch hẹn qua website sau:

http://en.lourdes-france.org/deepen/cures-and-miracles/miraculous-cures-in-lourdes. Mặc dù nhiều trường hợp trên đây thật sự rất phi thường, nhưng chúng ta chỉ nghiên cứu ba trường hợp có sức ảnh hưởng vượt xa hơn phạm vi cá nhân của người được ơn chữa lành:

  1. Trường hợp của Marie Bailly – được chứng thực bởi nhà vật lý nhận giải Nobel, Alexis Carrell – 1902.
  2. Trường hợp của Gabriel Gargam – 1901.
  3. Trường hợp của John Traynor – 1923.

___________________________________________________________

18 Giáo hội rất cẩn thận trong việc công nhận sự hiện ra của Mẹ Maria là xác thực. APPROVAL FOR MARIAN APPARITIONS (do Thánh bộ Truyền bá Giáo lý và Đức tin chịu trách nhiệm): 1. “Buộc phải có xác tính ức quyết, hay ít nhất là khả năng cao nhất, rằng một điều phi thường đã xảy ra, một điều không thể giải thích bằng những nguyên tắc tự nhiên, hay là sự giả dối cố tình. 2. Người hoặc những người khẳng định đã nhận được sự mạc khải riêng phải khỏe mạnh về tinh thần, trung thực, chân thành, đức hạnh chính trực, và vâng lời thẩm quyền giáo sĩ. 3. Nội dung của mạc khải hay thông điệp phải được thần học công nhận, phù hợp luân lý và hoàn toàn không sai lỗi. 4. Mạc khải phải mang đến những giá trị thiêng liêng tích cực và liên tục: chẳng hạn sự cầu nguyện, hoán cải, và gia tăng lòng đức ái.”

B.2 Marie Bailly và Alexis Carrel – 1902

Trường hợp thứ nhất liên quan đến Marie Bailly, được chứng thực bởi nhà vật lý học được trao giải Nobel – Tiến sĩ Alexis Carrell. Trường hợp này được điều tra bởi Tiến sĩ Stanley Jaki, Ph.D., người đã có hai bằng tiến sĩ về vật lý học và thần học, là một người đóng góp đáng kể cho lịch sử và triết học của khoa học, và là người được trao giải Templeton. (19) Trường hợp này liên quan đến cả Tiến sĩ Carrell và người nhận được phép lạ chữa lành – Marie Bailly. Tiến sĩ Carrell được trao giải Nobel về những kỹ thuật khâu mạch máu và tạp chí Scientific American công nhận rằng ông “đã đi tiên phong trong tất cả các tiến bộ chính trong ngành giải phẫu hiện đại, trong đó có ghép cơ quan nội tạng.” (20)

Năm 1902 một bác sĩ bạn của Tiến sĩ Carrell mời ông giúp chăm sóc cho các bệnh nhân được chuyển bằng đường hỏa xa từ Lyons đến Lộ Đức. Khi đó tiến sĩ Carrell là người theo thuyết bất khả tri, ông không tin vào các phép lạ, nhưng đồng ý giúp, không chỉ vì tình bạn, nhưng cũng vì ông quan tâm muốn tìm hiểu những nguyên nhân tự nhiên nào có thể cho phép những trường hợp chữa lành nhanh như vậy xảy ra ở Lộ Đức. Trên xe lửa, ông gặp Marie Bailly, chị bị tuberculous peritonitis cấp tính; bụng của chị căng phồng lên với những khối u lớn và rất cứng. (21) Dù Marie Bailly vẫn còn nửa tỉnh nửa mê, nhưng tiến sĩ Carrell tin rằng chị chắc chắn sẽ chết ngay sau khi tới Lộ Đức – hoặc không thì trước khi tới nơi. Các bác sĩ khác trên xe lửa đều đồng ý với chẩn đoán này.

 _______________________________________________________

19 Stanley Jaki thực hiện cuộc điều tra chuyên sâu cho Dossier 54 về vụ việc tại Phòng Y khoa Lộ Đức. Ông đưa ra những bằng chứng về y khoa (từ Carrel và hai bác sĩ khác) trong Dossier, cùng với một bài phân tích về nó, trong phần giới thiệu của ông về phiên bản mới của quyển Hành trình đến Lộ Đức của Alexis Carrel. Quyền sách được xuất bản bởi công ty của riêng ông, Real View Books, và có thể đặt mua trên mạng tại địa chỉ http://www.realviewbooks.com/. Cha Jaki tóm tắt những điểm chính của trường hợp này trong một bài thuyết trình cho Hiệp hội Y khoa Công giáo. Xem Stanley Jaki 1999 “Hai phép lạ Lộ Đức và Người được trao giải Nobel: Điều gì đã xảy ra? Hiệp hội Y khoa Công giáo.
https://www.catholicculture.org/culture/library/view.cfm?recnum=2866.
20 Xem trên.
21 Chính Tiến sĩ Carrell viết về sự chữa lành này trong quyển sách tựa đề Hành trình đến Lộ Đức lấy nhân vật chính là Tiến sĩ Lerrac (“viết ngược của Carrel”) và thay đổi tên “Marie Bailly” thành “Marie Ferrand” trong câu truyện. Đó là bài miêu tả trọn vẹn những gì Tiến sĩ Carrel chứng kiến trên chuyến xe lửa đến Lộ Đức. Xem Tiến sĩ Alexis Carrel 1950 Hành trình đến Lộ Đức, bản dịch của Virgilia Peterson (NY: Harper Brothers). Một bản miễn phí trên mạng tại http://www.basicincome.com/bp/files/The_Voyage_to_Lourdes.pdf.
_____________________________________________________________

Khi xe lửa đến Lộ Đức, chị Marie được đưa đến Hang Đức Mẹ, tại đó ba bình nước được đổ trên bụng căng phồng của chị. Sau lần đổ nước đầu tiên, chị cảm thấy một cơn đau quặn khủng khiếp, nhưng sau lần đổ nước thứ hai, nó giảm dần, và sau lần đổ nước thứ ba, chị cảm thấy nhẹ dần. Bụng của chị bắt đầu xẹp xuống và mạch của chị trở lại bình thường. (22) Tiến sĩ Carrel đứng đằng sau chị Marie (cùng với những bác sĩ khác) ghi chú chi tiết mỗi khi nước được rót xuống bụng của chị, và ông viết: “Bụng căng phồng và rất cứng bắt đầu xẹp xuống dần và trong vòng 30 phút nó hoàn toàn biến mất. Không có bất kỳ biện pháp hút dịch nào từ cơ thể được thực hiện.” (23) Sau đó chị Marie ngồi dậy trên giường, ăn tối (không bị nôn ói), và tự đứng dậy xuống hỏi giường và mặc quần áo ngày hôm sau. Rồi chị lên xe lửa, ngồi trên toa ghế cứng, và đến Lyons hoàn toàn khỏe mạnh. Tiến sĩ Carrel vẫn chú ý đến tình trạng tâm lý và thể lý của chị, và yêu cầu chị phải được theo dõi bởi một chuyên gia tâm thần và một bác sĩ trong suốt bốn tháng. (25) Sau đó, chị Marie gia nhập Dòng Nữ tử Bác ái – để hoạt động với các bệnh nhân và người nghèo với một cuộc sống rất hăng hái – và qua đời năm 1937 ở tuổi 58. (26)

Khi tiến sĩ Carrel chứng kiến biến cố diễn ra quá nhanh và y khoa không thể giải thích được, ông tin rằng ông đã được nhìn thấy một điều như phép lạ, nhưng với ông từ bỏ thuyết bất khả tri hoài nghi trước đây của ông là rất khó – vì vậy ông vẫn chưa trở lại với đức tin Công giáo của tuổi thơ xưa kia. Ngoài ra, ông muốn tránh trở thành một nhân chứng y khoa cho một biến cố phép lạ vì ông biết rằng nếu phép lạ được mọi người biết đến rộng rãi, nó sẽ phá hủy sự nghiệp của ông tại khoa y ở Đại học Lyons.

Tuy nhiên, sự chữa lành cho Marie Bailly là một phép lạ quá hiển nhiên (quá nhanh chóng, khỏi dứt hoàn toàn, và không thể giải thích được) đến mức nó trở nên nổi tiếng trên truyền thông ở Pháp và trên khắp thế giới. Các phóng viên tỏ ý rằng tiến sĩ Carrel không cho đó là một phép lạ, và điều đó buộc Carrel phải viết một bài trả lời trên báo chí nói rằng một bên (gồm một số tín hữu) vội vàng nhảy đến kết luận nó là một phép lạ quá nhanh, và một bên (cộng đồng y khoa) lại từ chối một cách vô lý không nhìn đến sự thật diễn ra như một phép lạ. (27) Quả thật, Carrel hàm ý rằng sự khỏi bệnh của chị Bailly có thể là phép lạ.

Không như tiến sĩ Carrel đã lo ngại, sự bảo vệ của ông cho phép lạ chữa lành chị Bailly sẽ đưa đến dấu chấm hết cho sự nghiệp của ông tại khoa y ở đại học Lyons, thật trớ trêu nó lại có kết quả rất tốt cho tương lai của ông – vì nó dẫn ông đến Đại học Chicago và sau đó đến Đại học Rockefeller. Năm 1912, ông được trao giải Nobel cho công trình trong các kỹ thuật khâu mạch máu. Tiến sĩ Carrel trở lại Lộ Đức nhiều lần, và trong một lần khác ông đã chứng kiến một phép lạ thứ hai – một sự chữa lành ngay lập tức một bé trai 18 tháng tuổi bị mù. Dù chứng kiến hai phép lạ này, tiến sĩ Carrel vẫn không thể tự mình dứt khoát khẳng định thực tại của các phép lạ – sự can thiệp siêu nhiên của Chúa thể hiện trên thế giới. Năm 1938, một năm sau khi Xơ Marie Bailly qua đời, Carrel kết bạn với Giám đốc Đại Chủng viện Rennes, ngài khuyên ông nên đến với Cha Alexis Presse là Tu sĩ Dòng Xi-tô cải cách – một nhà linh hướng nổi tiếng và là bạn của Thủ tướng Charles de Gaulle, và ông bắt đầu đối thoại với cha. Năm 1942, Carrel tuyên bố rằng ông tin Thiên Chúa, tin sự bất tử của linh hồn, và tin các giáo huấn của Giáo hội Công giáo. Hai năm sau, năm 1944, khi ông Carrel đang hấp hối ở Paris, ông được chuyển đến với Cha Presse, cha thực hiện các Phép Cuối cùng của Giáo hội cho ông. Ông đã không thể chối bỏ các phép lạ của Lộ Đức, và chúng đã dẫn dắt ông tiếp tục tìm kiếm bản chất tâm linh của ông và sự mạc khải Ki-tô giáo. Cuối cùng ông đã tìm được chính mình kết hiệp với Thiên Chúa qua Giáo hội từ thời thơ ấu của ông.

______________________________________________________________

22 XemJaki “Hai phép lạ Lộ Đức …”
23 Nt.
24 Nt.
25 Nt.
26 Nt.
27 XemJaki “Hai phép lạ Lộ Đức …”

B.3 Gabriel Gargam – 1901

Trường hợp thứ hai của Gabriel Gargam xảy ra năm 1901. Ông sinh trong gia đình với cha mẹ là người Công giáo tốt lành, nhưng đã bị mất đức tin khi lên 15 tuổi, và không còn theo đạo. Về sau ông làm người phân loại thư tín, và năm 1899 trong khi đang làm việc, chuyến xe lửa mà ông đang làm việc trên đó đụng đối đầu một xe lửa khác với tốc độ 50 mph (khoảng 80,5 km/h). Ông bị quăng khỏi xe lửa 52 bộ (gần 16 mét) và bị thương rất nặng. Sau tám tháng, ông bước gần đến ngưỡng cửa tử – một thân xác chỉ còn 78 pound (hơn 35 kg) với đôi bàn chân hoại tử, không thể ăn thức ăn cứng. Chỉ có thể tiếp thức ăn cho ông 24 giờ một lần qua một đường ống và cần phải có hai y tá chăm sóc. Tình trạng của ông được chứng nhận không những bởi các bác sĩ, nhưng cả những người tham gia trong vụ kiện mà ông gửi đơn kiện công ty hỏa xa – các hồ sơ tòa án và bằng chứng của các bác sĩ vẫn còn giữ đến ngày nay. (28)

Gargam nằm suốt hai năm trên giường – không ai có thể chuyển ông ra khỏi phòng. Mặc dù người dì của ông (là một nữ tu) và mẹ ông năn nỉ ông đến Lộ Đức, nhưng ông từ chối và chấp nhận cam chịu số phận giam mình trong phòng. Cuối cùng ông cũng xiêu lòng và đồng ý đi, nhưng việc chuyển ông trên băng ca trên xe lửa làm ông vô cùng đau đớn. Khi đến Lộ Đức ông ở trong tình trạng thật kinh khủng, và ông đồng ý xưng tội và lãnh nhận một phần Thánh Thể, rồi người ta chuyển ông đến suối nước trong hang Grotto. Sự đau đớn lên đến cực độ, đến mức ông ngất đi, và những người hỗ trợ ông tin rằng ông sẽ chết, vì thế họ đặt ông trên một xe ngựa và phủ một miếng vải lên mặt, và đưa ông trở lại khách sạn. Trên đường trở về, có một đám Rước Thánh Thể ngang qua. Vị linh mục đi đầu đoàn rước nhìn thấy sự đau buồn của những người đi chung quanh Gargam, và linh mục ban phép lành cho họ với Thánh Thể, và ngay khi đó đôi chân của Gargam bắt đầu nhúc nhích dưới tấm chăn. Sau đó ông tự ngồi thẳng dậy bằng chính sức lực của mình (điều mà ông đã không làm được trong suốt hai năm), và lại tiếp tục bước xuống khỏi xe ngựa và tự mình bước đi vòng quanh. Đám đông kinh ngạc hộ tống ông quay về khách sạn và tại đó ông ăn một bữa ăn như người khỏe mạnh (cho dù ông đã không thể ăn thức ăn cứng trong suốt hai năm). (29)

Ngày 20 tháng Tám, năm 1901, Gargam được 60 nhà y khoa kiểm tra, tất cả đều tuyên bố ông được chữa khỏi hoàn toàn. Họ không thể giải thích được sự lành bệnh của ông theo bất kỳ một nguyên lý khoa học – một phán quyết vẫn giữ nguyên sự thật đến hôm nay. Ông Gargam cũng trải qua sự biến đổi tâm linh, thánh hiến bản thân cho Mẹ Maria Đồng Trinh và phục vụ bệnh nhân tại Lộ Đức. Ông sống cuộc sống với sức khỏe bình thường đến khi qua đời năm 83 tuổi. (30)

__________________________________________________________

 28 Elaine Jordan “Phép lạ Lộ Đức cho Gabriel Gargam” trong Tradition in Action, http://www.traditioninaction.org/religious/h106_Lourdes.htm.
29 Nt.
30 Nt.

[Nguồn: magiscenter] 

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 18/11/2018]

1 2 3 4 5 6 7

Comments are closed.

phone-icon