Suy niệm: Ga 9, 1-41.
“Chính hành động thắp lên một ngọn nến là một lời cầu nguyện.” Đây là một trong những suy tư của Thầy David Steindl-Rast về sức mạnh của ánh sáng. Thầy David là một tu sĩ Dòng Biển Đức được sinh ra tại thành phố Vienna thuộc nước Áo. Thầy được cả thế giới biết đến nhờ sự tham gia tích cực vào cuộc đối thoại liên tôn và những hiểu biết của thầy về sự tương tác giữa tâm linh và khoa học. Hành động đơn giản của việc thắp lên một ngọn nến với chủ ý có thể giúp chúng ta tập trung vào Ánh sáng của niềm Hy vọng thay vì tuyệt vọng; Ánh sáng của Lòng Trắc ẩn thay thế cho sự cô lập; Ánh sáng của Lòng Thương xót mở ra cho chúng ta sự hiện diện của ân sủng trong cuộc sống của chúng ta. “Chính hành động thắp lên một ngọn nến” chứng minh cho sự quyết tâm của chúng ta trong việc chống lại bóng tối của sự xung đột, bạo lực và nghèo đói đang bao trùm rất nhiều nơi trên thế giới. “Chính hành động thắp lên một ngọn nến” là một dấu hiệu cho thấy ước muốn của chúng ta là được nhìn thấy rõ ràng giống như người đàn ông bị mù bẩm sinh trong bài Tin Mừng Ga 9, 1-41.
Câu chuyện về người đàn ông bị mù bẩm sinh không đơn thuần chỉ là một câu chuyện về sự mù lòa của anh ta. Câu chuyện này còn cho thấy sự mù quáng của các môn đệ Chúa Giêsu, cũng như của cộng đồng và các tư tế trong đền thờ. Sự mù lòa của người đàn ông này là một tình trạng bệnh lý chứ không phải là một hệ quả luân lý do hành vi tội lỗi của anh ta. Chính vì thế, đó cũng là câu chuyện của chúng ta, vì mù lòa là một phần nơi thân phận con người. Đoạn văn khá dài và có nhiều nút thắt trớ trêu. Người mù chưa bao giờ xin Chúa chữa lành, nhưng Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh. Trước khi anh ta được nhìn thấy, cuộc sống của anh ta rất khó khăn, nhưng anh lại chẳng được chú ý. Nhưng một khi anh ta được nhìn thấy, cuộc sống của anh ta trở nên phức tạp. Anh ta nhận thấy mình và gia đình là trung tâm của một cuộc tranh chấp đền thờ khắc nghiệt. Những người nói mình có thị lực thì lại bị mù. Câu chuyện chứa đầy những chất vấn và sự đánh giá. Đây không chỉ là để chúng ta quan sát, mà còn để chúng ta trả lời và giải quyết trong chính chúng ta.
Lạ lùng là sự mù loà của cả cộng đồng. Một số người hàng xóm thậm chí còn không chắc chắn rằng: người đàn ông được chữa khỏi là cùng một người đàn ông “thường ngồi ăn xin.” Anh ta sống trong thị trấn của họ, nhưng về mặt xã hội, anh ta sống ở ngoại vi xã hội. Có phải vì anh ta thiếu địa vị xã hội mà hàng xóm láng giềng không nhận ra anh ta? Không còn nghi ngờ gì nữa, sau khi được chữa bệnh anh ta mặc cùng một bộ quần áo mà anh ta luôn mặc. Họ có thể không nhận ra anh ta vì họ chỉ xác định anh ta bằng khuyết tật của anh ta? Có phải danh tính duy nhất của anh ta là danh tính của một tội nhân: một người khác hoàn toàn với họ? Vì anh ta ăn xin, họ phải cho anh ta một số tiền cắc, nhưng điều đó khiến chúng ta tự hỏi: liệu họ có từng dành thời gian để thực sự nhìn thấy anh ta không? Có vẻ như mắt của họ không rõ ràng như họ nghĩ. Thật thế, những người nghĩ rằng họ có thị lực tốt thường lại tự lừa dối chính họ. Có lẽ ở đây, chúng ta nên dừng lại và tự hỏi bản thân, chúng ta thấy những người sống ở “ngoại vi” của chúng ta như thế nào? Chúng ta có bao giờ dành thời gian để chú ý đến họ hoặc nói chuyện với họ không? Cái nhìn của chúng ta tích cực đến mức nào khi chúng ta thấy Chúa Giêsu nhìn người mù ngày hôm đó?
Những người hàng xóm láng giềng không phải là những người duy nhất sống trong bóng tối. Các môn đệ và các tư tế đền thờ có chung một truyền thống lâu đời. Bệnh tật và bất hạnh được coi là dấu hiệu của sự thất sủng và trừng phạt của Thiên Chúa. Chúng ta nghe thấy thái độ này được bày tỏ khi các môn đệ chất vấn Chúa Giêsu. “Thưa thầy, ai đã phạm tội? Người này hay cha mẹ của anh ta?” Chúng ta nghe thấy điều này một lần nữa được thể hiện rõ trong sự phán xét khắc nghiệt của các tư tế nơi đền thờ. Nhưng đây không phải là lần duy nhất chúng ta nghe thấy thái độ này được bày tỏ. Đôi khi, ngay cả thời nay, khi những điều xấu xảy ra với những người tốt, một số người thắc mắc: “Tại sao Chúa lại trừng phạt tôi? Tôi đi nhà thờ. Tôi cầu nguyện hàng ngày. Tôi phục vụ tại bếp súp trong giáo xứ của chúng tôi. Tôi đã làm gì sai?” Tuy nhiên, chúng ta biết rằng cầu nguyện và làm việc tốt không phải là ma thuật bảo vệ chúng ta khỏi nỗi đau và bóng tối cá nhân hay cộng đồng.
Sự mù quáng của các tư tế đặc biệt rắc rối. Họ được cho là những người khôn ngoan trong truyền thống tôn giáo. Thông qua cầu nguyện, ăn chay và khao khát sự trọn hảo, họ là những người được uỷ thác của Đấng Được Hứa ban. Điều gì đằng sau sự thiếu sáng suốt của họ? Người đàn ông mới được nhìn thấy đối thoại với các tư tế và câu hỏi của anh ta về họ rất táo bạo. Anh ta mời các vị tư tế tham gia vào một cuộc trò chuyện với Chúa Giêsu để tìm hiểu xem Ngài là ai và từ đâu đến. Tại sao các tư tế không nghe? Tại sao họ không tìm kiếm Chúa Giêsu để hỏi về Ngài? Có phải nỗi sợ giữ họ lại? Họ sợ mất quyền lợi, hay niềm tin vào Chúa Giêsu sẽ làm thay đổi đi nhiều trong cuộc sống của họ? Họ có quyền tha tội và giải thoát mọi người khỏi sự kỳ thị xã hội và tôn giáo. Giống như cha mẹ của người đàn ông mù, có phải họ cũng sợ rằng họ sẽ bị tẩy chay khỏi cộng đồng nơi đền thờ và gia đình của họ? Phải chăng cái giá phải trả để được nhìn thấy, được tin vào Chúa Giêsu là quá lớn? Ngay cả đối với chúng ta, mù cũng có lợi thế của nó. Thường thì tìm kiếm chân lý trong các tình huống khó khăn đều có thể làm chúng ta đau đớn, cho dù nó liên quan đến các sự kiện thế giới, hoặc chỉ là đưa ra những quyết định trong đời sống cá nhân của chúng ta. Sự thật có thể khiến chúng ta tự do để sống chân thực hơn, nhưng chúng ta có sẵn sàng trả giá không?
Câu chuyện về người đàn ông mù bẩm sinh cũng là về đặc tính của môn đệ: lắng nghe và đáp trả. Cùng với người mù, khi lắng nghe câu chuyện chúng ta bắt đầu hiểu được rằng việc lắng nghe Chúa Giêsu và tin vào lời nói của Ngài quan trọng đến mức nào. Không biết Chúa Giêsu là ai, người đàn ông cho phép người lạ này chạm vào anh ta và bôi bùn lên mắt. Khi Chúa Giêsu bảo anh ta đi đến hồ Siloam, anh ta đi. Có lẽ đó là vì anh ta đang rất cần, nhưng sự ngoan ngoãn của anh ta là rất can đảm. Khi anh ta trải qua việc rửa sạch bùn, mắt anh ta được mở, những cuộc trò chuyện khắc nghiệt với cộng đồng và các vị tư tế, sự chính trực của anh ta được tỏa sáng. Anh ta chỉ nói sự thật mà anh ta biết. Từng bước mặc khải nhỏ dẫn anh đến với Đấng là Chân lý. Khi chúng ta lắng nghe câu chuyện của anh ấy, chúng ta nghe thấy giọng nói của một người môn đệ đích thực và chúng ta có thể tự đặt câu hỏi. Ở đâu, hoặc ai, chúng ta cần phải nhìn rõ hơn?
Theo một cách nào đó, câu chuyện này là một trong những câu chuyện chữa bệnh đáng buồn nhất trong Kinh thánh. Người đàn ông giấu tên được nhìn thấy, nhưng đó là một trải nghiệm ngọt ngào pha lẫn đắng cay. Vào một thời điểm mà mọi người nên vui mừng, anh nhận thấy mình cô đơn và bị xa lánh với cuộc sống trước đây. Cả cuộc đời anh đã thay đổi. Anh ta không còn có thể tự hỗ trợ mình bằng cách ăn xin hàng ngày. Bố mẹ anh không còn chịu trách nhiệm về anh. Anh ta không còn có thể lấy lý do bị mù để trở nên thụ động. Giữa tình huống khó hiểu và cô lập này, anh đứng một mình cô đơn. “Họ đã đuổi anh ta ra khỏi đền thờ.” Đó là lúc Chúa Giêsu tìm kiếm anh ta và tìm thấy anh ta. “Bạn có tin vào Con Người không?” Câu trả lời của anh ấy rất rõ ràng, “Lạy Chúa, con tin”… “và tôn thờ Ngài.”
“Mắt chỉ thấy ánh sáng, tai chỉ nghe thấy âm thanh, nhưng một trái tim lắng nghe cảm nhận được ý nghĩa”.
Khi chúng ta suy ngẫm câu chuyện này, chúng ta có thể muốn tự hỏi mình thêm một vài câu hỏi nữa. Kinh nghiệm bị mù bẩm sinh là gì? Sống trong một thế giới mà hầu hết mọi người không bao giờ trải nghiệm về sự mù lòa sẽ như thế nào? Sẽ ra sao khi được sinh ra trong một tình trạng mà chúng ta tin rằng không bao giờ có thể thay đổi?
“Chính hành động thắp nến là lời cầu nguyện.” Khi chúng ta thắp nến trong mùa Chay này, chúng ta có thể muốn cầu nguyện cho sự sáng suốt và một trái tim biết lắng nghe.
Tác giả Jude Siciliano, O.P.
Nguồn: https://www.preacherexchange.com/
Chuyển ngữ: Nt. Maria Nguyễn Thị Ánh Hồng