Anh chị em thân mến!
Năm nay, Ngày Thế Giới Truyền Giáo được tổ chức trong khi Thượng Hội Đồng Giám mục đang tiến hành, đề cập đến việc đào tạo các linh mục trong thế giới ngày nay. Không ai mà không biết đến tầm quan trọng của chủ đề này đối với toàn thể Giáo hội và cho sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Giáo Hội tồn tại là để loan báo: nếu đây là nhiệm vụ đặc thù của Giáo Hội thì tất cả mọi người trong Giáo Hội phải nhận thức sống động về trách nhiệm của mình để truyền bá Tin Mừng.
Trong sự hiệp thông dưới quyền của người kế vị thánh Phêrô, việc chăm sóc để loan báo Tin Mừng trước hết thuộc về hàng giám mục, cùng với các linh mục là những cộng tác viên ưu việt, “họ thi hành nhiệm vụ của Chúa Kitô mục tử và thủ lãnh, họ tụ họp gia đình Thiên Chúa” trong lúc “làm cho người ta thấy được một Giáo Hội phổ quát” (LG 28).
Ân huệ thiêng liêng của các linh mục là “chuẩn bị cho họ một sứ mệnh… cứu rỗi rất rộng lớn và phổ quát ‘đến tận cùng trái đất’, vì bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng tham gia vào sứ mệnh rộng lớn và bao quát mà Chúa Kitô đã trao phó cho các Tông đồ” (Sắc lệnh “Chức vụ và đời sống Linh mục”, số 10). Vì thế, tất cả các linh mục “đều xác tín sâu xa rằng đời sống của họ được hiến thánh cũng là để phục vụ cho các xứ truyền giáo” (AG 3): mỗi linh mục là nhà truyền giáo do bản tính và ơn gọi linh mục. Như đã viết trong lá thư đầu tiên vào thứ Năm Tuần Thánh năm 1979, “ơn gọi mục tử của các linh mục thật lớn lao, và Công Đồng dạy rằng đó là sự phổ quát; ơn gọi hướng tới toàn thể Giáo Hội và vì thế, ơn gọi cũng là truyền giáo”. Tương tự, trong bài phát biểu trước các thành viên Bộ Truyền giáo vào tháng 4 năm 1989, sau khi đã chỉ ra “mỗi linh mục, tùy theo cách của mình, là nhà truyền giáo cho thế giới”, tôi mời gọi tất cả các linh mục trong Giáo Hội “hãy sẵn sàng cho Chúa Thánh Thần và cho giám mục, để được sai đi rao giảng Tin Mừng vượt ranh giới của đất nước họ”.
Trong sứ điệp này, tôi muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh khác của sứ vụ hiện nay đang ảnh hưởng rất gần tới các Giáo Hội trẻ và Giáo Hội truyền thống, đó là việc loan báo Tin Mừng cho những người ngoài kitô giáo, được trình bày trong môi trường của một giáo phận hoặc một giáo xứ, là bổn phận đầu tiên của mỗi vị mục tử . Vì vậy, các linh mục dấn thân cách đặc biệt và liên kết với các tín hữu để rao giảng Tin Mừng cho những người vẫn còn bên ngoài cộng đoàn Giáo Hội.
Phần lớn các linh mục sống chiều kích truyền giáo trong một Giáo Hội địa phương, vừa chăm sóc những tình trạng truyền giáo hiện nay đang tồn tại, vừa giáo dục và khuyến khích các cộng đoàn tham gia vào sứ mạng phổ quát của Giáo Hội. Việc giáo dục các linh mục tương lai với tinh thần truyền giáo ngụ ý rằng linh mục phải cảm nhận và làm việc bất cứ nơi nào ngài đến giống như một linh mục coi xứ trên thế giới để phục vụ toàn thể Giáo Hội truyền giáo. Ngài là linh hoạt viên được sinh ra và có trách nhiệm đầu tiên trong việc đánh thức nhận thức truyền giáo nơi các tín hữu.
Cũng chính sắc lệnh “Truyền giáo” – tôi muốn nhắc lại ngày kỷ niệm 25 năm được ban hành – để chỉ ra cách rõ ràng cho các linh mục điều họ cần phải làm để thúc đẩy nơi các tín hữu tình yêu đối với các xứ truyền giáo: cần duy trì giữa các tín hữu một sự quan tâm sống động hơn đối với việc loan báo Tin mừng cho thế giới: khơi lên nơi các gia đình kitô hữu nhu cầu và niềm vinh dự vun trồng các ơn gọi truyền giáo trong các con trai, con gái của họ; nuôi dưỡng sự nhiệt tình truyền giáo nơi những người trẻ, để nảy sinh những sứ giả tương lai của Tin Mừng trong họ; dạy cho mọi người biết cầu nguyện cho các xứ truyền giáo và yêu cầu đóng góp quảng đại của họ về tiền của và các phương tiện, trở thành gần như những người hành khất vì sự cứu rỗi các linh hồn.
Nhưng để có một trái tim hướng tới hoạt động mục vụ có chiều kích rộng rãi như vậy, cần một sự đào tạo truyền giáo vững chắc, mà Chủng viện sẽ phải cung cấp trước hết trong những năm chuẩn bị cho linh mục tương lai. Điều quan trọng là trong các chương trình nghiên cứu thần học, truyền giáo học phải có một chỗ đứng nổi bật. Được đào tạo như vậy, các linh mục mới có thể huấn luyện các cộng đoàn kitô hữu có được sự dấn thân truyền giáo đích thực. Còn là điều đáng mong là: thiết lập nhà mục vụ duy nhất với giám mục của họ, để họ có cơ hội gặp gỡ suy tư truyền giáo, các đại hội, các kỳ tĩnh tâm hoặc những ngày tinh thần tập trung về truyền giáo.
Ngoài những sáng kiến mà các giám mục có thể thực hiện cho việc huấn luyện truyền giáo thường xuyên cho các linh mục của mình, không được quên rằng những con đường năng động truyền giáo được cống hiến đều có giá trị đối với mọi kitô hữu và được thử nghiệm dù là trong các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo của Bộ Truyền bá Đức Tin, của Hội thánh Phêrô tông đồ và của Hội Thánh Nhi. Mỗi người trong Hội đều có lãnh vực riêng để hoạt động thuận lợi cho việc cộng tác truyền giáo, và tất cả đều cam kết rằng mọi tín hữu tham gia tích cực trong sự cộng tác này.
Đối với Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, được thiết lập từ Paolo Manna đáng kính, cũng như những vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, tôi trở lại đề cao Hội mạnh mẽ như một phương tiện để làm chứng và tình yêu hướng tới các sứ vụ. Vì lý do này, tôi muốn xác nhận – và Thượng Hội Đồng Giám mục sắp tới sẽ cho tôi cơ hội – điều mà Đức Phaolô VI viết trong thư mục vụ “Graves et Increscentes” vào tháng 9 năm 1976: “Hiệp Hội Truyền Giáo được coi là “linh hồn” của các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo… vì là trường đào tạo truyền giáo, họ được biết đến và được trợ giúp trong những sáng kiến và những mục đích của họ”.
Ngày Thế Giới Truyền Giáo phải là một điểm quan trọng hàng năm cho tất cả mọi người, đặc biệt cho các Hội Truyền Giáo, một công cụ được chọn do người kế vị thánh Phêrô và cơ quan Giám mục để truyền bá Tin Mừng.
Tôi cũng mong chỉ ra rằng ngày này bắt nguồn từ một đòi hỏi rõ ràng từ Hội Giáo Hoàng của Bộ Truyền Bá Đức Tin, được Giáo Hoàng Pio XI chấp thuận năm 1926. Chính vì Hội này mà các tặng vật của các tín hữu được gửi tới, được đóng góp trong ngày đó trên thế giới và nhờ những tặng vật này mà các Giáo Hội trẻ nhận được sự trợ cấp đáng kể cho hoạt động của mình: từ đào tạo chủng sinh tới giáo lý viên, từ việc xây nhà thờ và chủng viện tới lương thực hằng ngày cho các nhà truyền giáo.
Những nhu cầu mà các nhà truyền giáo phải đáp ứng thật sự thì rất nhiều, bởi vậy, việc đóng góp của những người mà họ có thể giúp phải có sự rộng lượng bền bỉ. Làm sao từ chối tiếp nhận lời mời của họ trong sự sẵn sàng và vui vẻ được vì nó cho thấy sức mạnh trẻ trung của Giáo Hội? Trong những hình thức liên đới với con người, đức ái truyền giáo là điểm đặc trưng nhằm cổ võ niềm hy vọng: truyền giáo là tương lai của Giáo hội.
Tôi gửi thông điệp này vào đại lễ Ngũ Tuần, khi sứ mạng của Giáo hội bắt đầu với lễ hiện xuống của Chúa Thánh Thần trên các tông đồ. Hoạt động loan báo Tin Mừng này giờ đây còn tiếp tục qua hai ngàn năm, đan xen những thăng trầm thành công cũng như khó khăn, được tiếp nhận cũng như bị từ chối; nhưng lời loan báo truyền giáo vẫn luôn được thực hiện nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, tác nhân chính trong việc loan báo Tin Mừng.
Trong các chuyến viếng thăm mục vụ tới các Giáo Hội trẻ mà tôi thực hiện từ khi bắt đầu sứ vụ mục tử hoàn vũ, tôi đã có thể nhận thấy những điều kỳ diệu mà niềm tin vào Kitô và quyền năng của Chúa Thánh Thần thực hiện trong các cộng đoàn được sinh ra từ lời loan báo của các nhà truyền giáo, đôi khi còn được xác nhận bởi chứng từ của các vị tử đạo. Ngay cả các nước Phi Châu, tôi đã viếng thăm trong tháng giêng vừa qua, niềm tin sống động của các tín hữu tại đây cùng với thực trạng đã làm tôi hiểu về sự đói nghèo đầy ấn tượng của họ. Vì vậy, tôi nghĩ, bổn phận của tôi là kêu gọi tới các quốc gia phồn thịnh và các tổ chức quốc tế, để với tình liên đới quảng đại của họ, họ đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng mà các nước này đang phải chịu và nhiều nơi khác của lục địa Châu Phi.
Hành trình truyền giáo của Giáo Hội, vào ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ ba, là sứ vụ của niềm hy vọng, ngay cả giữa những thử thách được chỉ ra và những đau khổ. Nghĩ đến “biến cố truyền giáo mới” đang chờ đợi Giáo Hội, cần khẳng định và làm rõ những đường nét nền tảng của hoạt động truyền giáo và gia tăng trong mọi người sự nhận thức và tinh thần tông đồ mạnh mẽ hơn.
Tôi kêu gọi tất cả mọi người cầu nguyện nài xin chủ mùa gặt sai thợ đến loan báo tin mừng cứu độ trong Đức Kitô. Nhưng lời mời gọi đặc biệt của tôi chú ý tới những người trẻ, để họ có thể mở lòng đón nhận ơn gọi truyền giáo và loan báo Tin Mừng.
Suy tư kết thúc của tôi trở thành chiêm niệm và cầu nguyện với Maria rất thánh. Tâm hồn tôi hướng về Mẹ, Nữ vương truyền giáo, cùng với lời cầu nguyện chân thành này: nơi tiệc cưới Cana, Mẹ đã xin và được phép lạ đầu tiên từ Con của Mẹ; Mẹ đã ở cạnh Con của Mẹ khi dâng chính mình trên thập giá để cứu chúng ta; Mẹ đã hiện diện trong nhà tiệc ly cùng với các môn đệ, chờ đợi trong cầu nguyện cho sự tuôn đổ của Thánh Thần; đồng hành trong hành trình dũng cảm của các nhà truyền giáo từ buổi đầu; truyền cảm hứng hôm nay và mãi mãi cho mọi con cái của Mẹ để bắt chước Mẹ trong sự nhiệt tình và liên đới hướng tới các nhà truyền giáo trong thời đại của chúng ta.
Nhân danh Mẹ kính yêu này, tôi xin gửi đến toàn thể anh chị em Phép lành tòa thánh.
Vatican, ngày 3 tháng 6 năm 1990, đại lễ Ngũ Tuần, năm thứ 12 triều đại Giáo Hoàng.
Chuyển dịch: Nt. Maria Phạm Thị Hoa, OP