
Sr. Xuân Bích, OP chuyển ngữ
Nguồn: www.vatican.va
Anh chị em thân mến!
Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 111, vốn được vị tiền nhiệm của tôi ấn định để cử hành trùng với Năm Thánh Di dân và Năm Thánh Truyền giáo, mang lại cho chúng ta cơ hội quý báu để suy tư về mối tương quan giữa niềm hy vọng, di dân và sứ vụ.
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, thật đáng buồn khi nhân loại bị bao phủ bởi chiến tranh, bạo lực, bất công và những biến đổi khí hậu khắc nghiệt, buộc hàng triệu người phải rời bỏ quê hương để tìm nơi lánh nạn. Khuynh hướng phổ biến chỉ chăm lo cho lợi ích hạn hẹp của một vài cộng đồng nhỏ đang là mối đe dọa nghiêm trọng đối với việc chia sẻ trách nhiệm, hợp tác đa phương, việc mưu cầu công ích và tinh thần liên đới toàn cầu nhằm phục vụ lợi ích chung của đại gia đình nhân loại. Viễn cảnh tái khởi động cuộc chạy đua vũ trang, sự phát triển của những loại khí giới mới, kể cả vũ khí hạt nhân, sự thờ ơ trước những tác động tai hại của cuộc khủng hoảng khí hậu hiện nay, cùng với ảnh hưởng sâu xa của bất bình đẳng kinh tế, tất cả khiến cho những thách đố của hiện tại và tương lai càng trở nên nặng nề.
Đứng trước những viễn cảnh hãi hùng và nguy cơ hủy diệt toàn cầu, điều thiết yếu là trong tâm hồn con người phải ngày càng trỗi dậy khát vọng về một tương lai hòa bình và tôn trọng phẩm giá của mọi người. Tương lai ấy chính là phần cốt yếu trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại và toàn thể thụ tạo. Đó là viễn tượng cứu độ mà các ngôn sứ đã loan báo: “Trên những quảng trường Giêrusalem, các cụ ông cụ bà ra ngồi nghỉ. Ai nấy tay chống gậy vì tuổi thọ đã cao. Tại các quảng trường trong thành phố, đông đảo thiếu nhi nam nữ tới vui đùa. […] Đây là hạt giống bình an: cây nho sẽ cho quả, đất sẽ sinh hoa lợi và trời sẽ đổ sương xuống” (Dc 8,4-5.12). Tương lai ấy đã khởi sự, vì được Đức Giêsu Kitô khai mở (x. Mc 1,15; Lc 17,21). Chúng ta tin tưởng và hy vọng vào sự viên mãn của nó, bởi vì Chúa luôn trung tín với những lời hứa của Người.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: “Nhân đức hy vọng đáp lại khát vọng hạnh phúc mà Thiên Chúa đã đặt vào trong lòng mỗi người; nó tiếp nhận những kỳ vọng thúc đẩy các hoạt động của con người” (số 1818). Hơn nữa, việc con người kiếm tìm hạnh phúc, cũng như niềm hy vọng đạt được hạnh phúc nơi một miền đất ngoài quê hương bản địa, chắc chắn là một trong những động lực chính yếu thúc đẩy phong trào di cư ngày nay.
Mối liên hệ giữa di dân và niềm hy vọng được thể hiện rõ ràng trong nhiều kinh nghiệm di dân hiện nay. Biết bao người di dân, tị nạn và những anh chị em phải rời bỏ quê hương đã trở nên những chứng nhân đặc ân của niềm hy vọng. Thật vậy, chính nơi sự kiên cường và lòng tín thác vào Thiên Chúa của họ trong từng ngày, khi đối diện với nghịch cảnh và vẫn kiên trì tìm kiếm một tương lai mà ở đó họ thoáng thấy hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người là điều khả thi. Hơn nữa, nơi cuộc đời họ, chúng ta lại có thể nhận ra hình ảnh hành trình sa mạc của dân Israel:“Lạy Thiên Chúa, thuở Ngài lãnh đạo đoàn dân riêng xuất trận, thuở Ngài tiến bước trong sa mạc hoang liêu, đất đã chuyển rung, trời cũng tan chảy, trước mặt Thiên Chúa, Đấng xuất hiện tại núi Xinai, trước mặt Thiên Chúa là Thiên Chúa của Israel. Lạy Thiên Chúa, Ngài đổ mưa ân hậu, gia nghiệp Ngài tiêu hao mòn mỏi, Ngài đã bổ sức cho. Lạy Thiên Chúa, đàn chiên của Ngài đến ở nơi đâu, Ngài cũng luôn nâng đỡ, bởi vì Ngài nhân hậu đối với kẻ khó nghèo” (Tv 68,7-10).
Trong một thế giới u ám vì chiến tranh và bất công, ngay cả khi mọi sự tưởng chừng đã mất, những người di dân và tị nạn vẫn đứng lên như những sứ giả của niềm hy vọng. Lòng can đảm và sự kiên trì của họ là chứng tá anh hùng cho một đức tin vượt quá những gì mắt người có thể thấy, và ban cho họ sức mạnh để thách thức cả cái chết trên những nẻo đường di cư đầy hiểm nguy. Ở đây, chúng ta cũng nhận ra sự tương đồng rõ rệt với kinh nghiệm của dân Israel trong hành trình sa mạc: họ đã đối diện với muôn vàn hiểm nguy, nhưng vẫn tín thác nơi sự chở che của Chúa: “Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc. Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ. Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch khí hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa” (Tv 91,3-6).
Những người di dân và tị nạn nhắc nhớ Hội Thánh về chiều kích lữ hành của mình: luôn luôn tiến bước về Quê Hương vĩnh cửu, được nâng đỡ bởi niềm hy vọng, một nhân đức đối thần. Mỗi khi Hội Thánh sa ngã trước cám dỗ của thái độ “an cư cố định” và không còn là civitas peregrina, những người lữ hành của Dân Chúa trên đường về Quê Trời (x. Thánh Augustinô, De Civitate Dei, Quyển XIV-XVI), thì khi ấy Hội Thánh không còn “ở giữa thế gian” mà lại trở thành “thuộc về thế gian” (x. Ga 15,19). Cám dỗ này đã từng xuất hiện ngay từ thời các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, đến mức mà Thánh Tông đồ Phaolô đã phải nhắc nhở Hội Thánh Philipphê rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3,20-21).
Cách đặc biệt, những người Công giáo di dân và tị nạn có thể trở nên những nhà truyền giáo của niềm hy vọng tại các quốc gia đón nhận họ, khai mở những nẻo đường đức tin mới ở những nơi mà sứ điệp của Đức Giêsu Kitô vẫn chưa vang tới, hoặc khởi xướng đối thoại liên tôn dựa trên đời sống hằng ngày và việc tìm kiếm các giá trị chung. Với lòng nhiệt thành thiêng liêng và sức sống dồi dào, họ có thể góp phần canh tân những cộng đoàn Giáo hội đang trở nên cứng nhắc, nặng nề, nơi mà tình trạng sa mạc hóa thiêng liêng đang lan rộng cách đáng báo động. Vì thế, sự hiện diện của họ cần được nhìn nhận và trân trọng như một phúc lành thực sự đến từ Thiên Chúa, như một cơ hội để con người rộng mở đón nhận ân sủng Ngài – Đấng ban nguồn sinh lực và niềm hy vọng mới cho Hội Thánh: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết.” (Dt 13,2).
Yếu tố đầu tiên của công cuộc loan báo Tin Mừng, như Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh, chính là chứng tá sống động: “Tất cả các Kitô hữu đều được gọi làm chứng nhân và bằng cách này họ có thể là những người loan báo Tin Mừng thực sự. Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến trách nhiệm của những người di cư tại các quốc gia tiếp nhận họ” (Evangelii Nuntiandi, số 21). Đây thực sự là một missio migrantium, sứ mạng được thực thi bởi chính những người di dân, và sứ mạng ấy cần có sự chuẩn bị thích hợp cũng như sự nâng đỡ liên lỉ, nhờ sự cộng tác hiệu quả giữa các Giáo hội địa phương.
Đồng thời, các cộng đoàn đón tiếp họ cũng có thể trở nên chứng tá sống động của niềm hy vọng, niềm hy vọng được hiểu như lời hứa về một hiện tại và một tương lai, nơi mà phẩm giá của mọi người, với tư cách là con cái Thiên Chúa, được công nhận. Nhờ đó, những người di dân và tị nạn được đón nhận như anh chị em, như thành phần của một gia đình, trong đó họ có thể bày tỏ những khả năng của mình và tham gia trọn vẹn vào đời sống cộng đoàn.
Trong Năm Thánh này, khi Hội Thánh tha thiết cầu nguyện cho tất cả anh chị em di dân và tị nạn, tôi ước nguyện phó dâng mọi người đang trên hành trình, cũng như những ai đang tận tụy đồng hành với họ, cho sự chở che hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria – Đấng An Ủi những người tị nạn. Xin Mẹ giữ cho ngọn lửa hy vọng luôn bừng sáng trong tâm hồn họ, và nâng đỡ họ trong quyết tâm xây dựng một thế giới ngày càng phản chiếu rõ hơn hình ảnh Nước Thiên Chúa là Quê Hương đích thực đang chờ đợi chúng ta ở cuối hành trình dương thế này.
Từ Vatican, ngày 25 tháng Bảy năm 2025 – Lễ kính Thánh Giacôbê Tông đồ
Giáo hoàng LÊÔ XIV