DẤU ẤN HÀNH TRÌNH
“The Path of saint Dominic”
Ngày 8- (Sat, 08/10): Prouilhe – Fanjeaux – Carcasonne
Rời Toulouse sau thánh lễ tại nhà thờ của các cha Đa Minh, chúng tôi lại lên xe điện ngầm, rồi chuyển qua xe của Đoàn thẳng tiến Prouilhe.
Cầm sẵn trên tay món quà và lá thư đề gởi Soeur Lybia, tôi hồi hôp chờ đợi…
Suốt hành trình 7 ngày qua, những nơi tôi đến dù là những địa danh quen thuộc đã nghe từ khi mới vào Dòng. Tuy nhiên trong lòng tôi luôn nghĩ: Chắc các cha các thầy thì cảm thấy gần gũi hơn, vì toàn là tu viện của các anh em. Trong khi từ Việt Nam tôi đã nóng lòng chờ đợi một cuộc gặp gỡ, một chút gì đó riêng tư hơn với các chị em nữ tu như mình. Tôi nghe được dư âm thánh thiện của lời mời xa xưa ấy, khi cha Đaminh lần đầu tiên xin các chị em – những người thuộc giáo phái Cathars đã trở lại với Giáo hội, đi vào nếp sống trọn lành, dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa, qui tụ sống chung với nhau dưới một mái nhà. Tôi thấy được tình yêu lớn lao của cha Đaminh đối với Chúa, sự nhiệt thành với các linh hồn, với thao thức nồng cháy của Ngài cho sứ vụ tông đồ, cũng như bề bộn những khó khăn không kể xiết của khởi hứng lập Dòng. Prouilhe, nơi tôi đến thăm hôm nay là hoa quả đầu tiên trong cuộc đời Đấng sáng lập. Ngài thiết lập đan viện nữ này từ năm 1206. Trải qua bao nhiêu thăng trầm thời cuộc, Nữ đan viện hiện nay vẫn sống với hình thức hiện diện là một cộng đoàn quốc tế gồm hơn 30 đan sĩ.
Quãng đường từ Toulouse đến Prouilhe không xa lắm, chỉ đủ để chúng tôi nhắc lại đôi mốc lịch sử, dặn dò nhau vài điều. Trong khi chúng tôi còn trao đổi thì chiếc xe đã bỏ xa thị trấn, bất ngờ lên dốc, rẽ vào con đường nhỏ rợp bóng cây. Uh…là Đan viện! trước mặt chúng tôi, những mái nhà cũ lọt thỏm giữa không gian bao la cây cối, trông như một ngôi nhà cổ tích.
Chỉ còn 5 phút nữa là tới giờ kinh trưa, nên cửa Đan viện đã đóng. May quá! Như có ai giữ chân, soeur coi nhà khách vừa đóng cửa quay vào thì ba người chúng tôi (Cha trưởng đoàn, anh hướng dẫn viên và tôi) cũng kịp tới gõ cửa. Thấy bóng chúng tôi, hai soeur bước ra, một trong hai người đó là soeur Lybia – Bề trên Đan viện. Các soeur rất vui vẻ, thân tình đón tiếp phái đoàn. Soeur mời chúng tôi tham quan nhà nguyện, dự giờ kinh trưa, và nếu có thể… dùng cơm trưa.
Riêng tôi, vì phải chuyển dùm lá thư, quà và liên hệ một số việc, nên tôi ở lại nhà sách với soeur bán hàng
Đối với soeur, Việt Nam là một đất nước bé nhỏ, xa típ tắp chân trời nào đó. Nhưng Soeur nói: “chúng tôi vẫn giữ các bạn trong lời cầu nguyện mỗi ngày”. Rồi như một người chị với người em xa lâu mới gặp, Soeur dẫn tôi giới thiệu từng món hàng và món nào cũng hỏi tôi đã có chưa, có thích không để soeur tặng? Đúng là: “Trong Đức Kitô không còn Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay hay đàn bà…” và vì thế, chẳng có khoảng cách giữa chúng tôi, một người da trắng và một người da vàng, vì tất cả chúng tôi đều có chung một Chúa là cha, nhất là chúng tôi còn có chung một cội nguồn ơn gọi, nơi một gốc tổ Đaminh.
Bầu khí thân tình bị phá vỡ khi phái đoàn tham quan ra tới, ào vào mua đồ lưu niệm, đặc biệt những thanh Chocola in hình cha Đaminh và biểu tượng năm thánh dòng, thoắng một chốc không còn cái nào. Tôi phụ soeur chuyển đồ từ phòng trong ra, và thỉnh thoảng nhìn cách soeur bán hàng, tôi thấy có cái gì đó rất thư thái, toát lên từ một tâm hồn bình an, chiêm niệm. Chẳng chào mời vồn vã, soeur cứ nhẹ nhàng thong thả tính tiền rồi cẩn thận ghi lại từng món bán được vào cuốn sổ tay, trên môi luôn nở một nụ cười thật tươi. Tính tiền cho mọi người xong, soeur còn kịp dúi vào tay tôi một chuỗi mân côi rất đẹp có in hình thánh Đaminh trên mỗi hột.
Không thể có giờ để lưu lại lâu hơn, chúng tôi tạm biệt các soeur để tiếp tục hành trình đến Fanjeaux.
Fanjeaux ở trên một ngọn đồi khá cao cách Prouilhe khoảng 3km. Tại đây, chúng tôi đã đến “Ngôi nhà của Thánh Đa Minh” trong một góc phố nhỏ im lìm, lặng lẽ. Người tiếp đón và cũng là hướng dẫn viên cho phái đoàn chúng tôi hôm nay là cha Augustine, người mà tôi đã gặp như một thuyết minh viên trong những đoạn video tài liệu lịch sử, một linh mục trẻ nhiệt tâm, thiết tha yêu mến và trân trọng những giá trị di sản cội nguồn. Thật may mắn cho chúng tôi được gặp cha, vì cha Augustine không phải là người ở đây, cũng không phải là người coi sóc ngôi nhà. Cha có mặt ở đây thời điểm này là để viết một cuốn sách về thánh tổ phụ Đaminh. Cha muốn tác phẩm này không chỉ như là cuốn sách lịch sử mà còn hơn thế nữa bằng những cảm xúc sâu xa. Cha thánh Đaminh của chúng ta đã từng ở đây, nơi căn nhà này, Ngài đã đi lại, ăn uống, cầu nguyện, và từng đêm Ngài đánh tội đến chảy máu. Ngài đã khóc và khóc rất nhiều, đến nỗi người ta vẫn giữ lại đây một cái giếng gọi là giếng thánh Đaminh khóc.
Cứ thế, cha Augustine dẫn chúng tôi đi giới thiệu phòng này qua phòng khác. Cha dừng lâu hơn ở một phòng trống, nơi được cho là “căn nguyện của thánh Đaminh”. Ban ngày cha Đaminh ra đi lặn lộn với sứ vụ giảng thuyết, gặp gỡ, nói với người ta về Chúa. Ban đêm Ngài lui về đây trong cầu nguyện, Ngài nói với Chúa về con người và thường Ngài thức suốt đêm cho đến khi mệt quá thì ngủ thiếp đi dưới sàn nhà, vì cha thánh không có phòng riêng cho mình. Do đời sống khổ hạnh và khiêm tốn, Cha Thánh tự cho mình là không xứng đáng có được một phòng riêng như anh em.
Khi lần dở từng kỷ vật, di tích, khơi lại những dấu ấn thời xa xưa của Cha thánh, đôi mắt cha Augustine long lanh và khuôn mặt tràn đầy cảm xúc.
Quả thật, trong không gian yên tĩnh, lắng đọng, đầy ắp thánh tích này, tôi nghĩ không chỉ cha Augustine, mà tất cả những ai muốn một lần cảm, để có thể nói, có thể viết về “huyền nhiệm ơn gọi và cuộc đời của thánh Đaminh” ắt phải có kinh nghiệm rất thật này. Tôi thầm ước: giá như lúc này tôi chỉ có một mình, và giá như thời gian ở đây kéo dài lâu hơn?
Rời ngôi nhà trong lưu luyến bịn rịn, tôi lặng lẽ theo sau đoàn người tiến lên đồi, dẫn đầu là cha Augustine. Ngài dẫn chúng tôi lên một địa điểm gọi là “đồi thánh giá Assissin”. Từng bước chân leo lên dốc vào giữa trưa với cái bụng đói, tôi chợt có chút hạnh phúc khi liên tưởng đến cuộc “lên núi Sọ” với Chúa. Có điều con đường này không gồ ghề sỏi đá, nhưng phẳng phiu và rất thơ mộng khiến ai cũng phải trầm trồ.
Từ đỉnh đồi thánh giá, chúng tôi có thể nhìn thấy toàn cảnh xung quanh như một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp – nơi lý tưởng cho những tâm hồn chiêm niệm, và chúng tôi hiểu tại sao đây lại là địa chỉ quen thuộc mà cha thánh Đaminh thường xuyên lui tới. Cây thánh giá được đặt ở đây để đánh dấu vùng đất thánh, hiện diện như một di sản quý của Dòng, nhắc chúng tôi về câu chuyện được lưu truyền trong lịch sử: Thánh Đa Minh trong một thị kiến đã nhìn thấy quả cầu lửa từ trời bay xuống ở cùng một địa điểm cách Fanjeaux khoảng 1 km (đường chim bay) , thị kiến này lặp lại tới ba lần. Cuối cùng cha Đaminh đã nhận ra ý Chúa, và Ngài bắt tay thiết lập nữ đan viện đầu tiên tại nơi đó.
Quây tụ nhau bên cây thánh giá trong cảm xúc dâng trào chúng tôi sốt sắng dâng lời kinh nguyện tạ ơn Chúa và hát kính dâng cha thánh tổ phụ. Bài hát O Lumen (Ôi ánh sáng) và và O spem miram (Ôi niềm hy vọng) cất lên trong lúc này mới thấy thấm thía ngọt ngào làm sao!
Chúng tôi cứ quấn quýt ở đây mãi chẳng muốn rời, nhưng tiếng gọi Đaminh vẫn là lời mời bước về phía trước. Như Cha Đaminh, chúng tôi phải lên đường và tiếp tục lên đường. Carcasonne đang chờ đón chúng tôi. Prouilhe – Fanjeaux , một con đường duy nhất mà cha Đaminh đã qua lại ngày mỗi ngày, thì Carcasonne- xào huyệt của bè rối Cathars sẽ còn in đậm hơn dấu chân cha. Từ Prouilhe, Cha đã có các chị em Đan viện hậu thuẫn bằng lời cầu nguyện, thì từ Fanjeaux, các cuộc ra đi của Cha sẽ tin tưởng mạnh mẽ hơn nữa để mang về cho Chúa những con chiên lạc.
Nt. Lucia Xuân Trang
(Tiếp theo trang 8)