Tôi được sinh ra trong một gia đình hạnh phúc. Nhưng không lâu sau, tôi trở thành kẻ mồ côi mẹ. Ngày còn mẹ, tôi được người ta thương mến bao nhiêu, thì khi mất mẹ, tôi được người ta thương hại bấy nhiêu. Tôi “ghét”, thậm chí “hận” hai từ “thương hại”. Sau đó tôi trở thành, thành viên trong một gia đình có ba đời con: “Con anh, con em và con chúng mình”. Từ đây tôi bắt đầu nếm một chút mùi vị đau thương của phận người.
Tôi – một kẻ khờ: Người ta bảo tôi ngây thơ, ngây ngô, và ngốc nghếch.
Tôi – một kẻ nhút nhát: khi phải đối diện, giải quyết vấn đề trước đám đông. Tôi rất sợ!
Tôi – một kẻ thiếu thốn tình cảm, vì thế hễ được ai thương thì tôi bám víu vào người ấy và tình cảm dễ theo chiều hướng lệch lạc: Thân riêng.
Tôi có nhiều bất thường về tâm lý, tình cảm và cảm xúc.
Tôi là một kẻ vụng về làm đâu bể đó. Tôi là kẻ hay quên và hậu đậu làm đâu để đó.
Tôi là một kẻ không khôn ngoan cũng chẳng tế nhị. Tôi không biết nói chuyện cũng chẳng biết cách làm vui lòng người khác.
Rồi một ngày bỗng tôi muốn đi tu…
Một người như tôi có thể trở thành một nữ tu không?
Tôi bước vào ơn gọi khi tuổi vừa tròn 18. Chúa đã không chê tôi, Hội dòng Đaminh Tam Hiệp đã đón nhận tôi. Trong thời gian tu luyện, tôi không gặp khó khăn gì nhiều về đời sống học hành cũng như đời sống cộng đoàn. Sức khỏe tôi khá tốt, nhưng tôi gặp thánh giá quá nặng nơi chính bản thân mình đó là: nỗi sợ hãi, sự nhút nhát thống trị tôi; sự thiếu thốn tình cảm và ước mong luôn có một người ở bên cạnh ngày đêm cám dỗ tôi; sự bối rối và bất an trong linh hồn viếng thăm tôi và sự tị ti làm người bạn “đồng hành thân thiết” của tôi. Có lẽ ngoài Chúa ra chẳng có một ai biết. Những đêm Noel, khi mà tất cả mọi người đang chụp hình, vui vẻ với nhau… thì tôi lên nhà nguyện để khóc với Chúa. Tôi sợ… tôi không được bình an trong tâm hồn. Những giờ chơi thể thao thú vị nơi sân chơi Thỉnh viện, mọi chị em đều mong chờ. Trái lại, đó là nỗi ám ảnh rất lớn đối với tôi, tôi rất sợ. Trải nỗi cô đơn sau mỗi giờ chơi, tôi lên nhà nguyện và dâng cho Chúa một hi sinh lớn lao. Một mình Chúa biết: những giờ chơi chung, khi chị em ngồi lại hâm nóng tình huynh đệ, vui chơi và giải trí với nhau, tôi vẫn cứ lủi thủi một mình trong vỏ ốc của nỗi cô đơn, thậm chí giờ cơm với tôi đôi khi cũng trở nên nặng nề, ngột ngạt. Những lúc ấy tôi ước chi mình là người vô hình để có thể biến mất khỏi cõi đời này. Tôi mong ước phải chi Chúa cất tôi về với Chúa! Tôi rất sợ và tôi đã rất đau khổ. Thánh giá của tôi, không ai có thể hiểu. Tôi không thể chia sẻ với chị em bởi niềm vui của tình huynh đệ lại là nỗi sợ hãi đối với tôi? Làm sao tôi có thể làm vơi đi niềm vui của cộng đoàn? Tôi khổ tâm lắm. Tôi chợt nhận ra mình không được bình thường như bao chị em đồng trang lứa và tôi thấy tôi đang mang những bệnh hoạn trong tâm lí và tình cảm. Suốt gần chục năm trời theo Chúa, tôi cứ trượt dài trong dính bén. Dính bén, đau khổ, giác ngộ rồi lại dính bén…tôi bị kéo lê trong những ngày dài như thế đấy. Rõ ràng tôi không hề muốn như vậy, nhưng tôi không thể, không thể làm chủ được những tình cảm, cảm xúc và nỗi sợ hãi của chính mình. Cho đến một ngày quyết định từ bỏ ơn gọi lóe lên trong tâm trí tôi.
Tôi thoáng nghĩ có lẽ mình phù hợp với một dòng chiêm niệm, một dòng kín chăng?. Nhưng để chắc chắn không làm theo sự cám dỗ của ma quỷ, tôi xin Chúa một dấu chỉ: tôi xin Chúa cho tôi bị bệnh. Tôi đã đến xin Dì Giám Đốc đi khám bệnh. Tôi đã đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác, từ bệnh viện huyện đến bệnh viện tỉnh chỉ mong sao được xác minh là người có bệnh, để như cái cớ cho quyết định rời bỏ đời tu của tôi. Nhưng Chúa đã im lặng… Ngài không cho tôi một dấu chỉ nào. Lạ lùng hơn nữa trong khi tôi cầu nguyện đêm ngày đòi dấu chỉ để an tâm rẽ lối thì Dì Giáo ngỏ ý cho tôi được tiến lên một bước nữa trong ơn gọi. Linh hồn tôi lao đao sợ hãi, tôi không đủ can đảm, tôi vô cùng bất lực. Vậy mà, Chúa của tôi, Ngài cứ im lặng mãi, Ngài không cho tôi một dấu nào để cho thấy Ngài đồng ý với quyết định của tôi. Tôi đành phải nhắm mắt làm liều tiến thêm một bước nữa theo lời mời gọi của mẹ Hội dòng.
Như thánh Phêrô, tôi thưa với Chúa: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc 5,5). Tôi đã lấy câu châm ngôn ấy làm ý lực sống cho riêng mình. Bởi vì chưa một lần tôi tự tin để bước theo Chúa, tôi bước theo Chúa trong cơn mộng mị, trong sự liều lĩnh đáng thương, song tôi không dám từ bỏ ơn gọi, có lẽ vì chính Chúa đã giữ tôi lại cho Ngài. Dù đau khổ triền miên nhưng tôi lại thích cầu nguyện. Mỗi buổi tối khi lên với Chúa tôi cảm thấy được bình an. Tôi đã dành rất nhiều thời gian của mình ở trên nhà nguyện, tôi bám vào Chúa như người sắp chết gặp được phao cứu sinh. Trong nỗi khó tôi nhận ra Chúa đã yên ủi tôi. Mỗi một bước tiến tôi đều thưa với Chúa:“Vâng lời Thầy…” cũng có nghĩa là: thưa Thầy con chấp nhận tin vào Thầy một cách tuyệt đối để con nhắm mắt đưa chân chứ con không có một chút gì để gọi là sẵn sàng hay an tâm tiến bước. Có lẽ không một ai có thể hiểu cảm giác của tôi ngoại trừ Chúa. Những tháng ngày của đời ơn gọi tiếp tục trôi, tôi vẫn đều đặn xin Chúa ban cho tôi dấu chỉ cho cuộc đời tôi, tôi tiếp tục cầu nguyện và trông chờ thánh ý Chúa. Thế rồi một ngày…
Sau năm tập thứ hai ở cộng đoàn tôi trở về nhà Mẹ, tôi nhận ra một điều kì diệu nơi bản thân tôi, như một phép lạ nhãn tiền Chúa làm, tôi thấy mình đã khác, tôi thấy mình đã được biến đổi như Chúa biến đổi thánh Inhaxiô tại bờ sông Cardoner xưa, một sự biến đổi như một mạc khải rõ ràng không có gì để nghi ngờ. Nỗi sợ hãi bỗng nhiên biến đâu mất, tôi chẳng còn sợ hãi nữa, tôi chẳng còn sợ những giờ chơi chung, cũng chẳng còn sợ những giờ chơi thể thao nữa. Tôi ngạc nhiên khi thấy mình xuống chơi với các Dì nhà hưu rất tự nhiên, còn đùa giỡn nữa, trong khi một năm trước đó tôi có bao giờ tôi dám xuống chơi với các Dì, nếu có đi thì phải hai ba chị em, và đi xuống để nghe ké các chị nói chuyện. Tôi bỗng thấy mình tự tin sống đúng là mình trong những giờ mà trước kia đối với tôi là một cực hình. Cảm ơn Chúa thật nhiều, vì người đã thương cất nỗi khổ nhục con phải chịu…
Tạm biệt tôi, cô bé của ngày hôm qua, một cô bé hay run sợ, một cô bé không bao giờ dám lên tiếng giữa đám đông, dù đám đông đó là các Dì, các chị thân yêu của tôi.
Tạm biệt tôi, cô bé của ngày hôm qua, cô bé tự ti chẳng bao giờ dám nhìn thẳng vào mắt ai đó và nói chuyện với họ, chẳng bao giờ dám bước ra khỏi cái vỏ ốc của mình để đến với người khác.
Tôi của ngày hôm nay đã khác, tôi hôm nay đã biết nhìn thẳng vào chị em để nói chuyện và yêu thương. Tôi hôm nay đã biết cười, biết nói, biết khóc với tha nhân bằng chính con người thật của mình. Tôi tin đây là một dấu chỉ Chúa nói với tôi rằng: “Ta chọn con!” Chính Chúa đã giang cánh tay mạnh mẽ để tôi biết rằng Chúa chọn tôi. Và lần đầu tiên trong đời, trước một bước tiến mới tôi thưa với Chúa “Vâng Lạy Chúa, con đã sẵn sàng! Chúa đã đụng chạm tới linh hồn con, Chúa đã cho con một dấu chỉ rõ ràng để con biết rằng: “Chúa chọn con”, nên bây giờ con tin tưởng và con sẵn sàng tiến lên thề ước với Chúa, con tự tin bước theo Chúa, và ước nguyện được theo Chúa đến cùng.”
Con cảm ơn Chúa thật nhiều, con như kẻ bất toại vất va vất vưởng bên lề của xã hội được Chúa thương chữa lành. Con như là người phụ nữ bị quỷ ám được Chúa thương giải thoát. Con đã được trở về một con người bình thường, Chúa đã thương chữa lành và giải thoát con, bằng chính ân sủng nhưng không của Ngài.
Cám ơn Hội dòng Đa Minh Tam Hiệp đã đón nhận con, cám ơn những con người tình nghĩa và thánh thiện trong Hội dòng Đa Minh Tam Hiệp đã đi ngang qua đời con, đã lấy tình thương mà giữ con lại trong ơn gọi, làm sáng lên trong con niềm hi vọng khi linh hồn con đầy bóng tối mây mù, đã có những bước chân rất đẹp ghi dấu trong đời con, đã có những nghĩa cử rất cao thượng thúc giục con phải tiếp bước. Giờ đây con đã không còn phải là con của ngày xưa nữa, Chúa và hội dòng đã chuộc con từ kiếp nô lệ. Và đời con, con ý thức con là kẻ chịu ơn, đời con xin nguyện là nô lệ của Chúa và của Hội Dòng Đa Minh Tam Hiệp mãi mãi.
Tập sinh năm II