Nhiệm kỳ: 1969 – 1975 và 1983 – 1987
Mẹ cựu Bề trên Antônina Nguyễn Thị Phượng đã kiên cường đối diện với bao nhiêu chông gai thử thách của thời ly loạn và chiến cuộc. Mẹ thường được các chị em gọi là “Bà Già Gân” vì chưa từng biết sợ bất cứ điều gì, nhưng cái “gân” của Mẹ là để bảo vệ cho Hội dòng và các nữ tu được trao phó cho Mẹ. Bên cạnh đó, chị em cũng yêu thương ví von Mẹ như là một đóa hoa cúc trắng, bền bỉ và kiên trung và mạnh mẽ vươn lên và trổ hoa trên sỏi đá khô cằn và đắng cay của cuộc sống.
Mẹ Maria Antônina sinh ngày 03/5/1910, tại làng Quỹ Ngoại, Trực Ninh, Nam Định. Mẹ là người con cả trong gia đình. Gia đình Mẹ đã dâng cho Chúa 2 người con trong Hội Dòng Đa Minh Tam Hiệp (người em gái của Mẹ là nữ tu Maria Benedicta Nguyễn Thị Huyền đã về với Chúa năm 2002).
Năm 17 tuổi, Mẹ từ giã gia đình vào sống trong Nhà phước Đa Minh Phú Nhai.
Sau 25 năm kiên trì bước theo Chúa trong đời sống tu trì, ngày 04/8/1952, Mẹ được gọi vào Tập viện tại Bùi Chu, dưới sự hướng dẫn và đồng hành của Cha Giáo Giuse Hòang Mạnh Hiền. Một năm sau, ngày 05/8/1953, Mẹ được diễm phúc tuyên Khấn lần đầu với Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, tại Bùi Chu.
Và 6 năm sau, ngày 05 tháng 8 năm 1959, Mẹ được tuyên Khấn Trọn đời tại Hội dòng Đa Minh Tam Hiệp.
Trải qua 81 năm sống trong Dòng, với 55 năm Khấn Dòng, Mẹ đã khiêm tốn dấn thân phục vụ chị em và tha nhân tại các cộng đoàn:
* Từ năm 1953 – 1954 : Mẹ làm may tại Nam Định
* Năm 1954, Mẹ cùng với chị em di cư vào Nam.
* Từ năm 1954 – 1958 : Tổng Thư ký kiêm Chị Giáo Đệ tử.
* Năm 1958 – 1961 : Giám tập.
* Năm 1961 – 1966 : Tổng Cố Vấn I – Phụ tá Mẹ Bề trên Êmilia Nguyễn Thị Sê.
* Năm 1966 – 1969 : Bề trên cộng đoàn Kiến Thiết (nay là Tu viện Mẹ Fatima, Phú Nhuận).
* Từ năm 1969 – 1975 : Mẹ Bề trên Hội Dòng Đa Minh Tam Hiệp.
* Năm 1975 – 1976 : Phục vụ tại cộng đoàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Dốc Mơ.
* Năm 1976 – 1977 : Bề trên cộng đoàn Thánh Phanxicô Xaviê, Cây Gáo.
* Năm 1977 – 1983 : Bề trên cộng đoàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Dốc Mơ.
*Từ năm 1983 – 1987 : Mẹ Bề trên Hội Dòng Đa Minh Tam Hiệp.
* Năm 1987 – 1989 : Phục vụ tại cộng đoàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Dốc Mơ.
* Năm 1989 – 1998 : Bề trên cộng đoàn Thánh Têrêsa, Đức Huy.
* Từ năm 1998 – 2008 : Mẹ về nghỉ hưu tại nhà An dưỡng Tam Hiệp.
Mặc dù Mẹ đã được nghỉ hưu, nhưng lúc nào tâm trí Mẹ cũng hướng về Hội Dòng và chăm lo cho Hội Dòng bằng chính những hy sinh âm thầm nhỏ bé của mình. Hàng ngày, ngòai những giờ cầu nguyện chung với chị em trong nhà An dưỡng và những giây phút lắng đọng bên Chúa Giêsu Thánh Thể, Mẹ đi lại chung quanh nhà Dòng, khiêm tốn cúi xuống nhặt từng chiếc lá rụng nằm ngổn ngang trên tất cả các đường đi lối lại trong khuôn viên Hội Dòng, với ý thức để Hội Dòng được sạch đẹp và thoáng lối cho chị em đi.
Nhưng rồi, năm tháng dần trôi, tuổi đời của Mẹ càng ngày càng cao, sức khỏe mỗi ngày một yếu, trí nhớ cũng giảm dần và việc đi lại cũng khó khăn, chậm chạp hơn. Vào những ngày cuối của tháng 12/2007 Mẹ cảm thấy trong người mệt mỏi, chán ăn, bụng căng cứng … sau khi khám bệnh, được Bác sĩ cho biết Mẹ đã lâm trọng bệnh “Sơ gan cổ trướng”.
Tuy mang trong mình một căn bệnh hiểm nghèo và đau đớn, nhưng Mẹ vẫn lạc quan vui vẻ, nói chuyện, đùa giỡn với mọi người như chẳng có bệnh tật gì. Bỗng nhiên, rạng sáng ngày 04/01/2008, cơn bệnh bùng phát, làm cho Mẹ rất khó thở và yếu mệt, không thể lên nhà nguyện để tham dự thánh lễ cùng chị em được nữa. Bệnh tình của Mẹ mỗi ngày một trầm trọng hơn, sức khỏe cũng cạn kiệt dần và Mẹ từ từ đi vào hôn mê.
Như một người nữ tì trung tín, đúng 21giờ 20 phút, ngày 11/1/2008, Mẹ đã âm thầm giã từ mọi người và thanh thản ra đi trong vòng tay yêu thương của chị em để về hưởng nguồn vui hoan lạc mà Chúa đã dành sẵn cho Mẹ trên Thiên Quốc.
Lần giở lại trang sử cuộc đời dâng hiến của Mẹ Maria Antônina, chúng ta thấy, Mẹ đã thể hiện rất rõ niềm khao khát “được nên thánh và mong ước mọi người cũng được nên thánh”.
Tất cả những ai đã được sống, được tiếp xúc với Mẹ cũng đều cảm nhận được nơi Mẹ sáng lên một vẻ đẹp của lòng bao dung, nhân hậu, khiêm tốn, hiền hòa và vị tha: hết lòng với Chúa, hết sức với Hội Dòng, hết tình với chị em và với các linh hồn.
– Với Chúa, Mẹ luôn sống đơn sơ như một trẻ thơ, sẵn sàng đón nhận và thực thi thánh ý Chúa trong tin yêu và phó thác.
– Với Hội Dòng, Mẹ đã không quản ngại những khó khăn vất vả để cùng với các Mẹ, các chị từng bước đắp xây và phát triển Hội Dòng, nhất là trong những năm đầu Hội Dòng mới được cải tổ từ Nhà phước thành Dòng cũng như thời gian Đất Nước mới được thống nhất, còn rất nhiều khó khăn, trăn trở. Đặc biệt trong nhiệm kỳ làm Mẹ Bề trên Hội Dòng lần thứ II (năm 1983 – 1987) Mẹ đã có công rất lớn trong việc khôi phục lại Tập viện của Hội Dòng, sau một thời gian dài tạm ngưng do hòan cảnh của đất nước sau biến cố năm 1975.
– Với chị em, Mẹ luôn ân cần, vui vẻ, nhẹ nhàng và tận tình với hết mọi người. Dù trong trách nhiệm Bề trên hay chỉ là một người chị em không có chức vụ gì trong Hội Dòng, Mẹ luôn sống khiêm tốn và hòa đồng với tất cả mọi chị em. Mẹ đã để lại cho tất cả mọi chị em trong Hội Dòng một mẫu gương tuyệt vời về tình huynh đệ và tình mẫu tử: luôn yêu thương, quan tâm chăm sóc, nâng đỡ, động viên, an ủi, khích lệ chị em khi thành công cũng như khi thất bại.
Mẹ luôn dịu dàng và dễ thương với hết mọi người, chưa ai nghe thấy Mẹ lớn tiếng bao giờ, ngay cả khi đau bệnh, lúc còn tỉnh, mỗi khi cơn bệnh kéo lên, làm cho Mẹ đau đớn, khó thở … nhưng Mẹ vẫn vui vẻ và bình thản, không một lời kêu than hay biểu lộ sự đau đớn trên nét mặt. Một nét đẹp đặc biệt dễ thương hơn nữa nơi Mẹ khi nằm trên giường bệnh là dù Mẹ có đang khó thở hay đau đớn yếu mệt, nhưng bất cứ chị em nào gọi lên hai tiếng “ Mẹ ơi” thì cũng đều được Mẹ đáp lại bằng một tiếng “ơi”. Giọng trả lời của Mẹ tuy yếu ớt, nhưng vẫn rất ngọt ngào và chất chứa một tình cảm đầy yêu thương trìu mến như của người Mẹ đối với người con trong một gia đình. Nét đẹp đó lại càng làm cho chị em thêm gần gũi, yêu quý và kính phục Mẹ như chính Mẹ ruột của mình.
– Với người ngoài, Mẹ luôn vui vẻ, quảng đại, từ tâm với hết mọi người, nhất là với những anh chị em nghèo khổ, Mẹ luôn yêu thương, quan tâm thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.
Cuộc sống của Mẹ hết sức giản dị, khiêm tốn và khó nghèo. Suốt cả cuộc đời, Mẹ chỉ sống cho người khác và vì người khác, hy sinh quên mình để dấn thân phục vụ mọi người, không quản ngại những khó khăn hay thiệt thòi, miễn làm sao Hội Dòng được phát triển và chị em sống tốt lành, thánh thiện. Đó là điều mà Mẹ hằng nguyện ước và cố gắng thực hiện trong suốt cuộc đời dâng hiến của Mẹ.
Giờ đây, Mẹ đã hòan tất hiến lễ cuộc đời và được Chúa cho về hưởng cõi Vĩnh Hằng, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con – những người còn đang trên bước đường lữ hành, luôn sống trung thành trong ơn gọi, nhiệt tâm với sứ vụ và nhất là luôn biết sống kết hiệp với Chúa trong từng giây phút của cuộc đời và không ngừng canh tân đời sống mỗi ngày để phần nào chúng con đáp lại được ước nguyện mà Mẹ vẫn hằng mong ước cho Hội Dòng cũng như cho từng chị em, để ngày sau chúng con cũng được cùng với Mẹ hưởng nguồn Vinh Phúc muôn đời.