Dấu lạ và sám hối – Suy niệm ngày 12.7.2022

0

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

TIN MỪNG: Mt 11, 20-24

20 Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối:

21 “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. 22 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.

23 Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Xơ-đôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay.24 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”

(Bản dịch của Nhóm CGKPV)

SUY NIỆM: 

1. « Khốn cho ngươi… »

Trong các Tin Mừng, một trong những lời gay gắt của Đức Giê-su, là những lời chúng ta nghe trong bài Tin Mừng hôm nay :

  • Đức Giêsu bắt đầu quở trách các thành : « Khốn cho ngươi hỡi Kho-ra-din, khốn cho ngươi hỡi Bết-xai-đa » (c. 21)
  • Và sau đó, Người còn nói : « Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!» (c. 23)

Chúng ta đừng để mình bị tê liệt bởi những lời quở trách và những lời công bố án phạt nặng nề. Cũng giống như cha mẹ của chúng ta nói những lời rất mạnh, khi chúng ta phạm lỗi nặng. Nhưng đó là những lời có tính sư phạm, chứ không phải là lời phán quyết chung cục, nghĩa là những lời này được nói ra để làm cho chúng ta phải sợ, thức tỉnh, sửa đổi, hoán cải, không dám tái phạm và trở nên tốt hơn.

Thật vậy, những lời quở trách của Đức Giê-su, trong trường hợp này, không phải là lời nói cuối cùng của Đức Giê-su, nói cách khác, đây không phải là bức thư tối hậu. Lời nói cuối cùng, lời tối hậu của Đức Giê-su là « Lời Thập Giá » (x. 1Cr 1, 18), nói lên tình yêu bao dung và tha thứ tuyệt đối của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi.

 2. Nhận ra dấu lạ

Điều quan trọng là ba thành phố này đã làm gì, đã phạm lỗi gì khiến cho Đức Giê-su nổi giận như vậy : đó là không sám hối, khi chứng kiến các dấu lạ Đức Giê-su đã thực hiện. Và trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nhấn mạnh đến sự từ chối của cả một tập thể, đó thành Kho-ra-din, thành Bết-xai-đa và thành Ca-phác-na-um đã không biết đọc ra các dấu chỉ mà Ngài thực hiện ở giữa họ để hoán cải.

Khi nghe những lời này, ước gì chúng ta quan tâm nhiều hơn đến cách thức cả cộng đoàn và gia đình chúng ta nhận ra sự hiện diện, hoạt động và lời mời gọi của Chúa ngang qua các dấu chỉ Chúa ban cho chúng ta. Có thể nói, chúng ta cũng được Chúa ưu ái ban cho các dấu lạ như đã ban cho Kho-ra-din, Bết-xai-đa và Ca-phác-na-um. Và Chúng ta cũng được mời gọi nhận ra những dấu lạ Chúa làm cách nhưng không cho mỗi người chúng ta ở trong cuộc đời, để với lòng biết ơn, chúng ta yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi sự. Nếu không, có lẽ Chúa cũng « nổi giận » !

*  *  *

Trước hết, đó là thế giới sáng tạo, thiên nhiên, môi trường, sự sống và tất cả những gì cần cho sự sống của muôn loài và của chính loài người chúng ta. Như lời Thánh Vịnh diễn tả:

Chỉ có Người làm nên những kỳ công vĩ đại,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. 
(Tv 136, 4)

Tiếp đến, đó là những kỳ công Đức Chúa thực hiện trong lịch sử đầy thăng trầm, khó khăn và đau khổ, như khi Dân Chúa đọc lại lịch sử dân tộc của mình dưới ánh sáng của biến cố Xuất Hành và lời hứa giải thoát của Đức Chúa, bởi lòng thương xót:

Chúa đã nhớ đến ta giữa cảnh nhục nhằn,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. 
(Tv 136, 23)

Và nhất là Đức Giê-su Ki-tô, quà tặng tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa đã ban cho loài người và cho từng người chúng ta:

Người ban BÁNH cho tất cả chúng sinh,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. 
(Tv 136, 25)

Người là Dấu Lạ của mọi dấu lạ, ơn huệ của mọi ơn huệ. Bởi vì, Người là đường đi, là ánh sáng, là lương thực hằng sống, là tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người. Chúng ta được mời gọi nhận ra và tuyên xưng trong mọi sự: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban (x. Ga 4, 10) sẽ khơi dậy nơi chúng ta lòng khát khao được Thiên Chúa dẫn đưa theo chính lộ ngàn đời:

Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con,
xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ.
Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác
thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời. 
(Tv 139, 23-24)

 3. Ơn cứu độ và liên đới

Khi Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ lên đường thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời (x. Lc 10, 1-12), Ngài không nói tới cá nhân, nhưng chỉ nói tới “cấp” nhà và “cấp” thành: vào nhà nào…; vào thành nào… Đó chính là chiều kích liên đới của ơn cứu độ mà Kinh Thánh và Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh; chẳng hạn, trong lời đối thoại của tổ phụ Abraham với Đức Chúa, chúng ta thấy rằng những người công chính có thể cứu được cả một thành đô (x. St 18, 16-33); Đức Giêsu nói với ông Gia-kêu: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19, 9); và rất nhiều lần, các Tin Mừng kể lại tình thương và lòng thương xót Chúa dành cho người này, nhờ vào lòng tin của người khác.

Trong thực tế, ơn cứu độ thường được nêu ra và giải đáp chỉ trên bình diện cá nhân: tội ai nấy chịu, công ai nấy hưởng. Điều này đúng, nhưng vẫn còn một sự thật khác: trong Chúa, còn có sự liên đới trong lầm lỗi, trong xét xử và trong cả ơn phúc nữa. Vì thế, đối tượng loan báo Tin Mừng của chúng ta không chỉ là những cá nhân, nhưng còn là và nhất là cả một dân tộc, một xã hội, một thành phố, một làng, một nhà, một cộng đoàn.

Sự liên đới trong sứ mạng loan báo Nước Trời, sự liên đới trong sự đón nhận lời loan báo, đặt nền tảng trên một sự liên đới khác, đó là sự liên đới thần linh:

Ai nghe anh em là nghe Thầy, ai từ chối anh em là từ chối Thầy; nhưng ai từ chối Thầy là từ chối Đấng đã ai Thầy. (Lc 10, 16)

Comments are closed.

phone-icon