Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Tin Mừng (Lc 1, 39-45)
39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)
*******
(A) Đức Maria đi và đến (c. 39)
(B) Gặp gỡ trong hiệp thông (c. 40-55) |
1. Lời Chào và hiệu quả của lời chào (c. 40-41)
(a) Lời chào của Đức Maria (c. 40) (b) Đứa con trong bụng nhảy lên (c. 41a) (a’) Tràn đầy Thánh Thần (c. 41b) |
2. Lời ca tụng của bà Ê-li-sa-bét (c. 42-45)
(a) Hướng về Mẹ Maria (c. 42) (b) Ơn huệ nhận được (c. 43-44) (a’) Hướng về Mẹ Maria (c. 45) |
|
3. Lời ca tụng của Mẹ Maria (c. 46-55)
(a) Đức Chúa và “Nữ Tỳ Hèn Mọn” (b) “Biết bao điều cao cả” (c. 49) (a’) Đức Chúa và những người khác |
(A’) Đức Maria ở và về (c. 56)
1. “Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường”
Khi cầu nguyện, chúng ta nên hình dung ra Đức Maria “vội vã lên đường” (c. 39), bước đi và tâm tình của Mẹ trong cuộc hành trình đi đến miền núi, đến thành thuộc chi tộc Giu-đa.
Chúng ta cũng có thể hình dung ra nhà bà Ê-li-sa-bét, là nơi gặp gỡ của hai chị em và cũng là nơi Đức Maria ở lại ba tháng (c. 56). Vì thế, chúng ta cũng nên chúng ta cũng nên hình dung ra trong suốt ba tháng ở nhà người chị họ, Mẹ đã làm những gì và với tâm tình nào.
Chúng ta hãy nhìn ngắm Mẹ Maria và bà Ê-li-sa-bét “diện đối diện” (c. 40-55). Chính cuộc gặp gỡ trong hiệp thông, nhưng rất đời thường này, mang lại những hoa trái lạ lùng (c. 40-41), và là nơi khai sinh ra những lời ca tụng bất hủ: lời ca tụng của bà Ê-li-sa-bét, làm nên lời kinh Kính Mừng hàng ngày của chúng ta (c. 42-45), và lời ca tụng Magnificat của Đức Maria, hằng ngày trở lên lời ca tụng của chúng ta và được hát vang lên cách long trọng trong giờ Kinh Chiều (c. 46-55). Đây cũng là khuôn mẫu của mọi lời ca tụng: gặp gỡ trong hiệp thông để hướng tới lời ca tụng và sẽ trào vọt ra lời ca tụng; và lời ca tụng chỉ xuất phát từ sự hiệp thông và làm cho hiệp thông.
Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta, lòng khát khao mãnh liệt, để cho mầu nhiệm Thăm Viếng của Đức Maria trở thành “linh đạo” của chúng ta, nghĩa là được tái hiện trong cả cuộc đời và từng ngày sống của chúng ta: đó là đón nhận Ngôi Lời, để cho Ngôi Lời lớn lên và để cho Ngôi Lời đến với người khác qua sự hiện diện và những công việc nhỏ bé.
2. Bà Ê-li-sa-bét và Mẹ Maria, diện đối diện
Bức tranh “Visitation” (Thăm Viếng) của họa sĩ Mariotto Albertinelli (người Ý), vẽ năm 1503, hoặc chính kinh nghiệm sống của chúng ta, sẽ giúp chúng ta hình dung khung cảnh của cuộc gặp gỡ giữa hai chị em. Nghe biết chị Ê-li-sa-bét, vừa hiếm muộn vừa đã có tuổi, nhưng lại có thai, Đức Maria liền vội vã lên đường đi thăm hỏi và giúp đỡ bà chị của mình. Em đi giúp chị sắp sinh con là điều vẫn còn xẩy ra trong đời thường của chúng ta, nhất là với những cuộc sinh ra đặc biệt. Và chính trong sự việc rất nhỏ bé của đời thường này mà Ân Huệ và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được nhìn nhận và tuyên xưng.
Tư thế diện đối diện, có thể làm chúng ta nghĩ đến cách sắp xếp vị trí của các đan sĩ khi hát kinh, đó chính là trung tâm mà từ đó lời ca tụng được khai sinh. Bởi lẽ, lời ca tụng là một sự hiệp thông. Chúng ta không thể ca tụng Chúa, nếu không hiệp thông với nhau.
Cuộc gặp gỡ có nhiều người hơn chúng ta tưởng (lời của bà Ê-li-sa-bét sẽ nói rõ cho chúng ta trong cuộc gặp này thực sự có bao nhiêu người), vì Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe Đức Maria chào hỏi, đứa con trong bụng bà nhảy lên! Như thế, cùng với mẹ, em bé cũng đã nghe được (điều này y học ngày nay đã chứng thực), nhưng nghe được tiếng của ai? Tiếng chào của “Dì Maria”. Nhưng với ơn gọi đang chờ đợi mình là “Người đi trước mặt Chúa” (1, 17), em bé Gioan như đã nghe được tiếng của em bé Giêsu (nói theo tương quan họ hàng là em Giêsu của mình) ngang qua tiếng của “Dì Maria”. Vì khi còn trong bụng mẹ, một cách nào đó, tiếng của mẹ là tiếng của con. Và đó chính là trường hợp của bé Gioan: em đã nhảy lên trong bụng mẹ, chắc chắc là vì Mẹ của em cũng đã rạo rực trong lòng khi nghe tiếng chào của Mẹ Maria. Bằng chứng là, Mẹ Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần và kêu lớn tiếng.
Như thế, ở bên trong cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ, ẩn dấu một cuộc gặp gỡ khác nhiệm mầu và vô hình, nhưng rất hiện thực và sống động (vì Gioan hẳn đã làm mẹ nhói đau, nhưng là cái đau của hạnh phúc!) giữa hai người con; và cả hai đều là ơn huệ tuyệt đối của Thiên Chúa. Sau này, theo các Tin Mừng kể lại, họ sẽ gặp nhau công khai tại sông Gio-đan, nhưng họ đã gặp nhau từ trước rất lâu qua cuộc gặp gỡ rất đỗi bình thường của hai người mẹ.
Trong cuộc sống, những cuộc gặp gỡ của chúng ta với người khác ban đầu tưởng chừng như tình cờ hay vô nghĩa, nhưng lại ẩn chứa một hay thậm chí nhiều cuộc gặp gỡ “nhiệm mầu” khác, và mang lại những hoa trái làm nên cuộc đời chúng ta, mà sau này chúng ta mới biết. Khi “về quê”, nhất là vào những dịp đặc biệt, chúng ta sẽ nhớ lại một cách tự nhiên những kỉ niệm xưa, những “cố nhân”, những cuộc gặp gỡ làm nên con người chúng ta hôm nay. Vì thế, chúng ta có thể tin rằng những cuộc gặp gỡ đang chờ chúng ta ở phía trước cũng sẽ chất chứa biết bao hoa trái trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, mà chúng ta không sao lường được.
3. “Bà Ê-li-sa-bét kêu lớn tiến và nói rằng…”
Lời của bà Ê-li-sa-bét mở đầu và kết thúc đều bằng lời tuyên xưng ân phúc của Mẹ Maria: phúc được Thiên Chúa ban nhưng không cho cả hai Mẹ Con (c. 41-42); phúc vì Mẹ Maria đáp lại bằng lòng tin vào Lời Thiên Chúa (c. 45). Lời này làm chúng ta nhớ lại biến cố Truyền Tin, ở đó chúng ta nhận ra rằng lòng tin của Mẹ Maria thật là tuyệt đối, bởi vì Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ một hành động tuyệt đối; lòng tin của Mẹ là tuyệt đối, còn là vì Mẹ đã đón nhận trước cách triệt để cả một hành trình dài đằng đẵng và đầy bất trắc phía trước.
Ở giữa câu nói, bà Ê-li-sa-bét nói về mình: “Bởi đâu tôi được…; này tai tôi…” (c. 43-44), nhưng hoàn toàn như người đón nhận: đón nhận với sự khiêm tốn cuộc viếng thăm của “em Maria”, đón nhận với tất cả “tấm lòng” lời chào hẳn là rất đỗi bình thường và đơn sơ của cô em, và sau cùng là đón nhận hiệu quả của lời chào (vì mẹ đâu có làm chủ được chuyện con nó giẫy trong bụng). Chúng ta có thể tự hỏi, làm sao lời chào của Mẹ Maria mang lại hiệu quả kì diệu như thế, lại “đánh động” người nghe sâu xa như thế? Hằng ngày và nhất là trong dịp lễ lớn, chúng ta cũng sẽ chào hỏi rất nhiều và cũng nhận được rất nhiều lời chào hỏi. Làm sao để lời chào của chúng ta đánh động người nghe, như lời chào của Đức Mẹ?
Như thế, lời của bà Ê-li-sa-bét hoàn toàn hướng về em của mình và Ân Huệ Chúa ban nhưng không cho em. Tương tự như chính Mẹ Maria, Mẹ đã hoàn toàn hướng về chị Ê-li-sa-bét trong cuộc hành trình “thăm viếng” (thực tế là hơn cả thăm viếng, vì Mẹ ở lại tới ba tháng!). Ra khỏi mình để nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban cho người khác, đó chính là hiệp thông và ca tụng , vốn là ơn gọi của con người. Thái độ ngược lại là đóng kín và ghen tị.
Lời của bà Ê-li-sa-bét thật là đẹp, đẹp cả về hình thức lẫn nội dung, chính vì thế mà lời này trở thành một phần lời “Kính Mừng” vang lên liên lỉ và bất tận của chúng ta; và nhất là với “Sự Vui Thứ Hai”, chúng ta được mời gọi thực hiện cùng một hành trình của Đức Mẹ, đó là ra khỏi mình để hướng về Ân Huệ tuyệt đỉnh Thiên Chúa ban cho Mẹ cách nhưng không, hướng về ân huệ Thiên Chúa ban cho anh chị em, bà con của mình. Cảm nhận như thế khi đọc lời kinh “Kính Mừng”, chính là cách tốt nhất để chuẩn bị mình đón nhận sự chia sẻ cùng một Ân Huệ của Mẹ, “Ân Huệ Giêsu Kitô”.