Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu: “Khi Ta đến liệu có còn thấy đức tin trên trái đất này nữa không?” vẫn là một lời mời gọi sống động và là một lời cảnh báo cấp thiết hôm qua, hôm nay và mãi mãi cho những ai khao khát loan báo ơn cứu độ cho anh em mình.
Lần dở lại những trang Kinh Thánh, chúng ta được chiêm ngắm những mẫu gương sống đức tin mạnh mẽ và sâu sắc như thế nào. Tổ Phụ Abraham vì tin đã dám rời bỏ quê hương xứ sở, nơi chôn rau cắt rốn, là điểm dừng an toàn, là gia sản sự nghiệp của mình để đến miền đất Chúa chỉ cho, một miền đất của lời hứa, miền đất mong đợi trong tương lai, một miền đất hoàn toàn nằm trong tay Thiên Chúa và hoạch định của Ngài. Tổ Phụ chúng ta đứng trước một viễn tượng mà mọi lời hứa dường như không nằm trong khả năng và tầm nhìn của một con người. Một điều chắc chắn có thể nói ở đây là Abraham luôn đặt trọn một niềm xác tín nơi Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa trung tín, công chính luôn thực hiện lời hứa theo đúng kỳ hẹn và là người cha yêu thương không bao giờ lìa bỏ những người con của Ngài. Niềm tin được thể hiện cách rõ nét nhất qua việc tổ phụ đáp lại tiếng Chúa cách triệt để và mau mắn trong cuộc hành trình. Cho dẫu hành trình ấy có lúc đen tối và mờ mịt như biến cố hiến tế người con duy nhất của mình theo yêu cầu của Thiên Chúa.
Mẹ Maria, một cuộc đời sống trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Biến cố Mẹ lãnh nhận bào thai Hài Nhi Giêsu vào cung lòng Mẹ, qua lời loan báo của Sứ Thần Gabrien. Một biến cố làm thay đổi hoàn toàn con người Mẹ. Thay đổi ấy không dừng lại ở một trinh nữ thôn quê Nazareth, ở một gia đình, một dòng tộc, một dân tộc mà là một sự biến đổi mang tầm mức hoàn vũ. Một sự hoán đổi thẳm sâu, một cuộc giao duyên đất trời, một cuộc giao tranh giữa sự sống và sự chết, một cuộc chiến thắng vĩ đại của vị Vua Trời đối với thế lực ma quỷ, tội lỗi và sự chết.
Nhìn lại gương sống của các thánh nhân, của các bậc tổ tiên cho chúng ta một sức mạnh và lòng xác tín vào Thiên Chúa, cho dẫu vẫn còn đó những thử thách đau thương, vẫn có đó những nghịch cảnh trong đời sống thường nhật. Tổ Phụ Abraham khi đón nhận yêu sách tình yêu của Thiên Chúa, ông phải trải qua biết bao thử thách và gian truân. Có những lúc lời hứa trở nên quá bí ẩn và huyền nhiệm nhưng Tổ phụ đã không thay đổi thái độ sống niềm tin vào vị Thiên Chúa là cứu Chúa của mình. Tổ phụ đã để Thiên Chúa tự do sử dụng và điều khiển cuộc đời mình theo Thần ý.
Mẹ Maria khi đáp tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ không còn lặng thầm và êm đềm như trước. Mẹ thực sự bước vào một cuộc mạo hiểm, một bước đường mới trong ý định nhiệm mầu thẳm sâu của Thiên Chúa. Tương lai là của Chúa và thuộc về Thiên Chúa cách trọn vẹn. Trước mắt, Mẹ chỉ nhìn thấy sự nghi ngại của thánh Giuse. Mẹ nhìn thấy con Mẹ là một hài nhi sanh ra không được đón nhận. Và Hài Nhi ấy cũng như bao đứa trẻ khác, phải bế bồng, chăm chút và cho bú mớm. Mẹ đã từng phải ẵm bế con mình chạy trốn bạo vương Hêrôdê. Có những lúc con tim của nguời mẹ cũng bấn loạn khi nghe tin con mình mất trí, rồi bị bắt và cuối cùng nhìn thấy con mình chết tất tưởi trên thập giá. Giây phút tưởng chừng như hoàn toàn vô vọng trước mắt con người. Chấm dứt một cuộc hành trình bằng thất bại thảm khốc trước bao lời nhục mạ, nhạo cười của bao người qua lại. Mẹ chứng kiến cảnh một Thiên Chúa im lặng trước cái chết của con mình, trước sức mạnh của sự ác và sự dữ.
Thế nhưng điều con người không hiểu nổi thì chính Thiên Chúa đã tỏ hiện, điều con người cho là vô vọng, Thiên Chúa đã khơi lên và tuôn tràn hy vọng, điều con người tưởng là chấm dứt, Thiên Chúa lại dùng là khởi đầu cho một sự sống mới, điều con người cho là chết chóc Thiên Chúa lại biến thành sự sống bất diệt, Thiên Chúa chấp nhận cho sự dữ, tội ác và sự chết xảy đến để rồi chính Ngài chiến thắng tất cả những thế lực ấy bằng cuộc phục sinh vinh hiển của Con Ngài và đó cũng chính là sự phục sinh dành cho những ai tin vào Ngài qua chính Đức Kitô, Con của Ngài.
Tổ Phụ Abraham, Mẹ Maria và còn bao nhiêu người sống niềm tin, những người dám đánh đổi tất cả để chọn Chúa làm gia nghiệp đã thực sự được hưởng lời chúc phúc của Chúa: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Thiên Chúa không bao giờ thất hứa, vì chính Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta không tin vào một điều hão huyền nhưng là một Thiên Chúa là Cha yêu thương hằng luôn đồng hành với chúng ta từng giây phút.
Thế nhưng thật đáng tiếc, ngày hôm nay biết bao con người đang đánh mất dần niềm tin vào Thiên Chúa. Bản chất một số người Kitô hữu hôm nay đã dần dà bị mai một. Cuộc sống của họ trở nên phản chứng hơn bao giờ hết.
Một ngày nọ, tôi đến thăm gia đình một gia đình trong xóm, chị Hoa, người vợ và là người mẹ của hai đứa trẻ bất hạnh tâm sự với tôi rằng: “Soeur biết không, em là một thành viên trong một gia đình ngoại giáo. Ngày trước khi chưa cưới nhau, em cũng có nhiều người thương, nhưng vì mẹ em khuyên em nên lấy chồng người Công giáo, vì người Công giáo không bao giờ bỏ nhau. Em cảm thấy rất có lý và em cũng chỉ mong ước có một gia đình chung thủy, hạnh phúc để lo cho tương lai con cái. Nhưng cô thấy đó, điều em nghĩ đã thực sự không đúng. Anh ấy vẫn hằng đi dự lễ, vẫn giữ đạo, thế mà em không hiểu lý do nào đã khiến anh say xỉn sớm tối đánh đập vợ con một cách tàn nhẫn. Anh đã cố nài ép em kí đơn li dị, em đã hết mình thuyết phục anh nhưng vô ích, cuối cùng em cũng phải đành chấp nhận chia tay. Ba mẹ con em bồng bế nhau về sống chung với ngoại. Và anh đã sang ngang với một tình duyên mới. Ngày ly hôn anh đã ký trước tòa là sẽ cung cấp cho hai đứa con mỗi tháng một số tiền, nhưng từ trước tới nay anh không hề đưa cho em một xu nào. Em phải tự mình bươn chải nuôi con, vì nghề nghiệp không có nên em xin đi quét dọn sân chơi tennis, có những ngày 9 giờ tối em mới bước chân về nhà. Em khổ lắm, tương lai hai cháu bé sẽ như thế nào đây ? Nhưng hiện giờ em vẫn giữ đạo bình thường, cho dầu anh ấy phản bội em nhưng em nghĩ đạo Công giáo tốt nên em vẫn giữ những ngày lễ Công giáo.”
Nhìn vào những hoàn cảnh như trên, tôi cảm thấy thật đau lòng, đạo là tốt, nhưng người có đạo chưa chắc đã tốt, đó là một trong những nhức nhối của Hội Thánh của tôi. Lời chúc phúc của Chúa thì không phải ai ai cũng sẵn lòng đón nhận, vì còn tuỳ thuộc vào tự do của con người.
Người tu sĩ chúng ta hôm nay, được mời gọi trở nên nhân chứng đức tin và tình thương hơn bao giờ hết. Chúng ta hãy là những ngọn đèn thắp lại niềm tin cho những người thất vọng hay những ai hơn một lần nghi ngại vì lối sống nhẫn tâm, hời hợt của những người mang danh Kitô hữu nhưng không sống niềm tin. Sống niềm tin vẫn luôn là một thách đố và là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Thiết nghĩ niềm tin của chúng ta mỗi ngày phải được nung đốt bằng ngọn lửa của Thần Khí, kín múc sức mạnh nơi chính Đức Kitô và trung thành với hoạch định của Thiên Chúa trên đời mình, thì chúng ta mới đủ sức để sống niềm tin và làm chứng nhân cho anh em mình.
Tôi thiết nghĩ chính bản thân mình không có quyền thất vọng trước những bất trắc của cuộc sống, trước những nghịch cảnh éo le của nhân loại. Nhưng những bất trắc đó phải là lời mời gọi tôi biết sống và loan báo Tin Mừng trong hy vọng. Tôi phải làm cho niềm hy vọng được phục sinh, được tồn tại mạnh mẽ. Vẫn có đó một Thiên Chúa hằng sống luôn đồng hành. Vẫn có đó một Thiên Chúa là nguồn mạch của niềm tin và là tình yêu vẫn hằng theo dõi và trợ lực cho những bước đi của con cái mình. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta hãy lưu lại trong tình yêu của Ngài. Sống tâm tình tin yêu phó thác để Chúa sử dụng chúng ta làm dụng cụ đem ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người.
Tiểu Muội