Nó là một cô bé bướng bỉnh, nghịch ngợm. Khi bước vào trung học, vừa rời sự kiểm soát của ba má, nó cùng với đám bạn thân bắt đầu “tung hoành ngang dọc”. Tụi nó thường xuyên “cúp cua” để đi chơi, chỉ cần nháy nhau một cái là cả bọn cùng “biến”. Nó được mệnh danh là “trưởng ban ồn ào”, vì nó đã từng gây ra bao rắc rối cho lớp. Đã có những bạn trai bị nó “thưởng” cho cái tát nảy lửa vì làm rớt tập vở của nó xuống đất mà không chịu nhặt lên.
Một lần, khi phát hiện ra lốp xe của mình bị xì. Nó đã tức mình đi trả thù tất cả lốp xe của các bạn trong lớp. Cho đến khi tìm ra thủ phạm, nó đã âm thầm cắt đứt đôi dép da của đối phương, làm cho hắn tức đỏ cả mặt mà không dám làm gì. Cùng lớp nó có nhỏ tên Hoa tụi nó thường gọi là “Hoa héo” vì Hoa rất chăm chỉ, hiền lành. Nó cho rằng như thế là quê mùa, sống như thế uổng cả đời học trò. Hơn nữa, “Hoa héo” lại thường lên tiếng khi tụi nó “cúp cua” làm cho tụi nó rất khó chịu. Chúng bàn nhau cho Hoa héo một bài học nhớ đời. “Phi vụ” chưa kịp thực hiện thì thầy chủ nhiệm đã đổi chỗ ngồi của nó (vì can tội mấy đứa “quậy“ ngồi gần nhau). Nó phải xách cặp xuống ngồi bàn số 4. Nó ấm ức lắm, lại càng cay cú hơn vì phải ngồi gần “Hoa héo”. Các bạn thân của nó ra sức phản đối để giữ nó ngồi vào bàn đầu với lý do: nó có “chiều cao khiêm tốn”, nhưng thầy vẫn không thay đổi quyết định. Nó đành lững thững đi xuống, ném “phịch” cái cặp lên mặt bàn và lẩm bẩm: “ghét của nào trời trao của ấy.” Nó đã chủ trương không bao giờ thèm nói chuyện với “Hoa héo”.
Từ hôm đổi chỗ ngồi, nó càng tỏ ra lầm lì. Giáo viên vừa ra khỏi lớp là nó đã tót lên chỗ cũ. Nhưng chạy được vài hôm nó cũng chán nên đành ngồi lì tại chỗ. Nó thường mơ màng nhìn qua cửa sổ lớp. Hôm ấy, nó chợt nghe được tiếng hát du dương ngân lên từ ngôi Thánh Đường cạnh trường. Nó bồi hồi, thảng thốt nhìn về phía đó. Lạ thật, ngôi nhà thờ cổ kính vẫn đứng đó bấy lâu, sao hôm nay bỗng trở nên thân thương quá. Nó say sưa chiêm ngắm ngôi nhà thờ. Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa về bà ngoại đã quá cố chợt ùa về trong ký ức nó. Ngày nó còn bé, bà yêu nó lắm. Mỗi khi nó được về thăm, Bà thường dẫn nó đi lễ và căn dặn: “Con phải sống ngoan, lớn lên nhớ xin ông bà nội cho các em cùng đi lễ nghen con.” Đó cũng là lời trăng trối ngoại dành cho nó. Mắt nó bỗng nhoà đi, nó nhớ ngoại qúa! Nó đã quên sứ mệnh bà trao cho nó trước lúc bà ra đi. Nó vô cùng hối hận và bức xúc, muốn thực hiện ngay nhưng lại thấy bao nhiêu khó khăn trước mắt. Nó sợ ông bà nội không bằng lòng. Còn ba nó nữa, liệu ba có đồng ý cho nó đi lễ không? Nó thì thầm với ngoại: “Ngoại ơi! Ngoại linh thiêng thì giúp con với, nếu không con sẽ chẳng thực hiện được lời trăng trối của ngoại.”
Vài hôm sau, nó vô tình nghe “Hoa héo” nói với người bạn bên cạnh: “Sáng Chúa nhật Hoa không thể đi học thêm được, vì Hoa còn đi lễ nữa.” Như một phản xạ tự nhiên, nó quay phắt về phía Hoa và hỏi: “Hoa là người Công giáo à?” Hoa mỉm cười gật đầu. Quên cả “lệnh cấm vận”, nó nói với Hoa: Má tớ cũng là người Công giáo, nhưng má tớ ít được đi lễ lắm. Bây giờ tớ cũng rất thích đi lễ, Hoa dẫn tớ đi với nha! Gương mặt của Hoa tươi hẳn lên. Hoa đặt tay lên vai nó và bảo: “Được, bây giờ chứng ta cùng sang gặp cha xứ.” Nó hân hoan đi theo Hoa, mặc cho bao ánh mắt ngạc nhiên của các bạn đang đổ dồn về nó. Vừa gặp cha xứ, nó đã nhận được một nụ cười thật tươi. Cha hỏi han và nói chuyện với nó rất vui vẻ và gần gũi. Lúc ra về cha dặn Hoa: “lần sau con nhớ rủ bạn cùng đi lễ nhé!” Mấy hôm sau, cha đã hỏi thăm và tìm đến nhà để gặp ba má nó vì nó đang ở tuổi vị thành niên. Nó vô cùng vui sướng. Kể từ đó, bức tường ngăn cách giữa nó và “Hoa héo” đã bị phá đổ. Khoảng cách giữa hai đứa ngày càng rút ngắn lại và dần dà trở thành đôi bạn thân lúc nào không hay. Nó còn là nhịp cầu nối các bạn nó với Hoa.
Sau sáu tháng học Giáo lý Tân tòng, nó đã được lãnh Bí tích Rửa tội. Rồi hai năm sau đó, nó lại bước theo Ngài trong ơn gọi Thánh hiến trong Dòng Đa Minh Tam Hiệp.
Giờ đây nó đã là một nữ tu hạnh phúc vì đã tìm được “kho tàng vô giá” của đời mình. Nó càng cảm thấy hạnh phúc hơn mỗi khi nhìn lại một chặng đường đời đã qua vì nó nhận ra trong tất cả và trên tất cả, tình yêu Chúa dành cho một “con chiên hoang” như nó quá diệu vợi, quá bao la.
Sr. Anna Đặng